Thursday, February 24, 2005

sử việt, đọc vài quyển nửa chừng: các trung tâm quyền lực trong lịch sử Việt

Tạ Chí Đại Trường


tranh: Hà Cẩm Tâm

Bài “Các trung tâm quyền lực trong lịch sử Việt”Chương VII trong cuốn “Sử Việt, Đọc Vài Quyển” của Tạ Chí Đại Trường do Nhà xuất bản Văn Mới vừa in năm 2004...


THỐNG NHẤT hay BÀNH TRƯỚNG QUYỀN LỰC?

Dù “đọc một quyển” (Đại Việt sử kí toàn thư) hay “vài quyển”, lịch sử Việt Nam ở đây vẫn chưa thấy được hết tất cả những phức tạp trong tiến trình hình thành của đất nước. Tuy nhiên ít ra thì nó cũng làm tỏ rõ được nhiều biến động vẫn thường nghĩ là giản dị, xuôi một chiều quyền lực đến mức thô thiển, như khẳng định của các sử thần trong quá khứ, và của một số lớn sử gia bây giờ. Sử Việt, đọc vài quyển chỉ là nối tiếp ước mong từ Thần, người và đất Việt (bản mới) để suy nghĩ về “một lịch sử Việt Nam mới, hợp với thời đại khoa học bây giờ”.

Thống nhất – hay nhất thống theo văn pháp cổ, đã được nhắc tới ba lần trong sử Việt mà lần cuối vừa qua ít nhiều gì cũng làm đậm nét sôi động tình cảm không có ở đương thời của hai giai đoạn về trước.


Lần đầu là của thế kỉ X với Đinh Bộ Lĩnh được coi là đã dẹp tan Thập nhị Sứ quân, dựng nên cơ nghiệp nhà Đinh với tên nước là Đại Cồ Việt. Nhưng thật ra chữ nhất thống gán cho công tích này cũng rất là muộn. Ngô Sĩ Liên (1479) cho thời kì độc lập là kể từ Ngô Quyền, nhưng Vũ Quỳnh (1511) đẩy cho Đinh Bộ Lĩnh mà dấu vết chữ nghĩa còn lại là ở Lê Tung (1314) với lời ca tụng công “nhất thống bờ cõi”, rồi tiếp tục theo đà tuyên dương mà trở thành công “đại nhất thống” (Phạm Công Trứ 1665?) trong hình trạng cuối cùng của bộ sử (1697).

Lần “gom về một mối” này có lẽ vì xa đời nên bị khuất lấp bởi các tranh luận gần đây về lần thống nhất thứ hai vào đầu thế kỉ XIX, và vấn đề tuy có vẻ nằm trong giới nghiên cứu nhưng không phải không bắt nguồn từ lãnh vực ngoại sử học và đã gây nên các dao động từ đó, theo thói quen xảy ra khi phải động đến các thành kiến đã định hình.


Tất cả các kết luận dẫn đến sự thống nhất đều là do sự kiện có Mười hai sứ quân rành rẽ được ghi trước thời Đinh. Lê Văn Hưu nhân đó đã đặt vấn đề Đinh làm công việc phục hồi quốc thống có từ Triệu Đà; Ngô Sĩ Liên bàn về vai trò tích cực của bậc chủ tể trong sự ràng buộc của Mệnh Trời, giữa cái thế bĩ thái, thăng trầm của vận hành lịch sử. Chẳng ai nghi ngờ gì về con số mười hai kia, tuy đồng thời với Lê Văn Hưu, Lê Tắc đếm chỉ thấy có bốn ông làm loạn, còn người Minh đầu thế kỉ XV cũng thấy chừng ấy mà vẫn phải chép là mười hai theo “các bậc già lão”. Có lẽ thời gian gần đây, chỉ có ông K.W. Taylor chú ý nhìn kĩ hơn về thời loạn lạc đó, thấy được sự vô lí của con số mười hai mà giả định rằng đó là cái cớ dẹp loạn để Đinh mong Tống phong vương, công nhận mình. Chúng tôi đã từng nhìn kĩ hơn nữa để giải thích rằng sở dĩ có con số mười hai là vì người sử quan tăng lục của Đinh, Ni sư Trương Ma, đã đem quan niệm Mười hai / Thập nhị nhân duyên của tôn giáo mình gán vào công tích người dẹp loạn, không những đã đưa lại bình yên cho vùng đất mà còn trọng dụng người của Phật Giáo nữa.


Dù sao thì ý thống nhất nằm trong sự phân vân về mệnh nước của Lê Văn Hưu, trong niên hiệu Thái bình của Đinh, và tập họp từ “đại nhất thống” về sau làm vạch phân kì lịch sử nước Việt rành rẽ trong TT, tất cả đã đem lại một ảo tưởng về sự tập trung quyền hành dưới triều Đinh trên toàn phủ Đô hộ trước kia. Thật không có gì sai hơn với các chứng cớ lịch sử còn lại, trước và sau đó, có thể kể ra nếu không ngại lặp lại những điều đã nói ở các nơi khác. Và như thế, có thể coi sự tranh giành quyền làm chủ cựu thuộc địa An Nam của đế quốc Đường đã không chấm dứt qua thời thuộc trị. Những lãnh tụ địa phương xưng vương, xưng đế thật ra chỉ là những chủ liên minh mà quyền lực dễ bị đảo lộn khi mất thế. Liên minh Ngô-Dương của Ái Châu - Giao Châu thắng Kiểu Công Tiện đơn độc. Liên minh Đinh-Trần (Bố Hải Khẩu) thắng thế khi Đinh rời bỏ Ngô lúc thấy Ngô suy nhược. Sự tranh chấp dồn về kinh đô Hoa Lư giữa các thủ lãnh quân sự nhưng dáng dấp liên minh lãnh thổ cũng hiện rõ giữa Lê Ái Châu và Lí Giao Châu trong việc Lí Công Uẩn giữ vai trò quân sự phụ tá sau đảo chính Đinh (trông coi Tứ sương quân) và mối thâm tình kéo dài đến sự kiện ôm khóc thây Lê Long Việt. Lí rời bỏ vùng Hoa Lư xa lạ của tập đoàn bản thổ để trở về với quê hương bản quán (Cổ Pháp), dùng tụ điểm La Thành cũ / Thăng Long mới, dựa thanh thế thủ phủ cựu thuộc địa gần gũi với tập đoàn lưu vong của mình hơn. Và từ đó bung thế lực ra, mà vướng víu của thời cũ khiến ta không lấy làm lạ khi danh xưng “phủ Đô hộ” cứ còn chìm nổi qua triều đại này và về sau.


Hiện tượng được cho là thống nhất thật ra là sự bành trướng quyền lực trải qua nhiều năm tháng, nhiều đời, nhiều triều đại. Trung tâm Thăng Long có cơ hội thành đạt hơn trung tâm Hoa Lư nhưng không phải là đã giải quyết dễ dàng sự bành trướng. Sinh hoạt chủ ruộng đất trực tiếp của các vua Lí đầu đời là dấu hiệu mặt trái của sự tồn tại các vùng lãnh chúa khác. Liên minh quân sự nổi bật thời trước chuyển thành liên minh thông gia mở rộng, uyển chuyển, rõ rệt hơn thời Đinh. Nhưng sự kiện một người họ Đinh (Đinh Lộc) nắm quyền quân sự (như vai trò của ông vua khai sáng Lí Công Uẩn) lại bị giết, chứng tỏ sự đối địch Hoa Lư Thăng Long trở thành công khai, dù được ẩn giấu sau những sự kiện chỉ nổi bật vào lúc cuối đời. Đinh bị hạ giá, trở về với vai trò một thứ Man Lão nổi loạn bị giết, bị bắt đi xây thành trì, rồi nổi dậy hoà chiến dây dưa cùng với các thế lực khác, trong đó có họ Trần chấm dứt triều đại. Một Kiểu Hiền nổi loạn trong 6 tháng mới bị giết (1239) chứng tỏ dấu vết nuộn màng của một sứ quân cũ. Trong tình thế đánh thắng quân Nguyên, người ta dễ tưởng tượng ra một Đại Việt thống nhất xuyên suốt nhưng sự kiện Diên Hồng lại là bằng cớ về sự hiện diện của những thủ lãnh địa phương mà họ Trần chủ Thăng Long phải cần đến để giữ gìn cơ nghiệp của mình. Chính các thủ lĩnh này đã góp phần không nhỏ vào việc đánh quân Nguyên, cũng như sau này đã ào ạt nổi dậy khi quân Minh đem áp dụng phương thức cai trị trực tiếp từ Trung Quốc, gây va chạm đến quyền lợi bản thân của họ. Kết quả là sự xuất hiện trung tâm Mường - Tày Thái Thanh Nghệ trên lịch sử Việt rồi sẽ chia ra cai trị trên vùng Thăng Long, Phú Xuân...


Thế mà thói quen nhìn có một chính quyền xuyên suốt từ Hoa Lư, Thăng Long ở các thế kỉ buổi đầu độc lập, qua thời gian, trở thành một chân lí khó tranh cãi. Điều này, nếu bị phủ nhận, lại động chạm đến một tâm tình mở nước, dựng nước được cố tình vun bồi cho kéo dài đến hơn bốn ngàn năm, chứng minh cho sự hiện diện của một nước có “văn hiến” mà sự xác nhận, trớ trêu thay, lại là từ sự vuốt ve, chiều đãi của Thiên tử Minh, Thiên triều!


Thời đại xảy ra vấn đề thống nhất lần thứ hai được tranh luận ồn ào hơn, không chừa cả cách bắt chước sử quan xưa nêu vấn đề : “chó lợn”, “nghịch tặc”, “phải giết!... theo sách Xuân Thu (dạy)”. Đó là khi bàn về những diễn biến ở phần tư cuối thế kỉ XVIII lan qua hai năm đầu thế kỉ XIX.

Thật ra thì việc xác định Nguyễn Vương thống nhất sơn hà “đem giang sơn về một mối” như của ông giáo Trần Trọng Kim, tuy căn cứ trên sự kiện nhưng cũng không giấu được tính chất phe phía, bởi vì có triều Nguyễn đang trị vì – dù chỉ còn hình tượng èo uột nhưng vẫn hiện diện, với người Pháp ủng hộ bên cạnh. Sự đảo lộn bắt đầu, rồi đi đến mức ngang ngược, khi có một chính quyền phối hợp tinh thần yêu nước với một chủ nghĩa cách mạng đề cao tính giai cấp, từ phương Tây duy lí chuyển hoá trên nền tảng phương Đông cực quyền, lập lại một hệ thống sử thần mới. Thế là “vị lãnh tụ nông dân áo vải cờ đào Nguyễn Huệ” dắt dẫn “phong trào Tây Sơn tiến lên làm nhiệm vụ thống nhất đất nước, bảo vệ độc lập dân tộc, kháng chiến chống quân xâm lược...” Và “Gia Long lên làm vua lập ra triều Nguyễn sau khi đã đàn áp cuộc cách mạng nông dân mà nội dung cơ bản là đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân, độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia.” (Lịch sử Việt Nam tập I, 1971, tr. 343, 369.) Cái “chướng” của lập luận vẫn lộ ra một khi quyền bính ủng hộ buông lơi nhưng tự ái ù lì không dễ gì thúc đẩy buông bỏ dứt khoát: “Nguyễn thừa hưởng được thành quả to lớn của phong trào nông dân Tây Sơn trong sự nghiệp thống nhất đất nước...” (Đại cương lịch sử Việt Nam, tập I, Bộ Giáo dục xb. 2000, tr. 437.) Nhìn theo diễn tiến sự kiện thì đúng nhưng xét theo dụng ý của lập luận thì không có gì sai hơn.


Thật ra, “thống nhất” chỉ là cách nói của người sau, khi sự kiện đã xảy ra trong đó càng lúc càng đậm tính chất phe phái, định kiến thu thập được. Chẳng ông Nguyễn Huệ Tây Sơn, Nguyễn Ánh Gia Miêu nào có ý định thống nhất đất nước cả. Bằng vào tuyên bố của đương thời thì chỉ có chuyện sau năm 1786, Nguyễn Huệ xô đổ chính quyền Trịnh, trao lại cho nhà Lê “gom về một mối quyền hành” bị Trịnh tước đoạt trước kia, và được nho thần Lê coi như là ngôi vị chính thống đã phục hồi, sự kiện được xác nhận nơi tên quyển lịch sử kí sự Hoàng Lê nhất thống chí. Còn muốn nói đến “phá vỡ phân tranh” thì phải kể đến sự kiện Hoàng Ngũ Phúc (Trịnh) tràn qua sông Gianh chiếm Phú Xuân năm 1774, một biến động quan trọng mà người ta dễ bỏ qua, hoặc vì bị chìm lấp dưới những cuộc tiến quân dữ dội lấn lướt về sau của Tây Sơn, hoặc vì nho thần vướng víu tính trung quân, không ưa gì Trịnh. Lê thần ghét Trịnh đã đành – nhất là khi họ này đã mất quyền, mà Nguyễn thần càng không thể nhấn mạnh tới mối nhục mất kinh đô của mình, chứng cớ là Đặng Trần Thường đã phải chết vì tội không biết lịch sử đương thời, cứ chép theo giấy tờ Trịnh Lê mà đưa tướng hoạn quan Hoàng Ngũ Phúc vào danh sách phong thần.


Trong hồi đánh nhau ở thế kỉ XVII, chỉ có các ông tướng phản thùng nhảy qua nhảy lại trên con sông ranh giới mà thôi. Biên giới được giữ chặt tạo ra một ý thức độc lập vùng lần hồi vững chãi trong tin tưởng của các tay cầm quyền: Nguyễn Hoàng dưới quyền Lê chỉ là Quận công, có quyền trên đất riêng thành Quốc công với con cháu vài đời tiếp tục, đến Phúc Chu chỉ mới xưng Đại Việt Quốc Vương trên bia nhưng Phúc Khoát thì thay đổi triều nghi, đúc ấn Quốc vương hẵn hòi không cần nằn nì Thanh công nhận nữa. Sự việc tách biệt trở thành đương nhiên trong đầu óc dân chúng dưới quyền: Ý thức khu vực đã thành hình. Một tay chống đối chúa Nguyễn ở thế đang lên như Nguyễn Nhạc cũng không nghĩ xa hơn việc chiếm đất đai của riêng họ Nguyễn như ông ta đã thổ lộ với Chapman (1778). Ông không mơ ước một mảnh đất nào phía bên kia bờ sông Gianh, nếu giả định rằng ông đã đủ khả năng để hiểu biết về nơi ấy. Trịnh chiếm xong Phú Xuân, không đủ thực lực để tiến sâu hơn nhưng cũng bằng lòng dừng lại vì cho rằng mình đã đủ “nổi uy danh” rồi, việc tiếp theo không còn gì là khó nữa. (Lời Hoàng Ngũ Phúc tâu với Trịnh Sâm.) Tuy nhiên sự kiện này lại quan trọng ở chỗ làm lung lay ý thức khu vực vùng đã thành hình. Đường biên giới đã di động và không được kiểm soát chặt chẽ nữa. Dân Phú Xuân thấy tận mắt quân Đông Kinh, tướng sĩ Trịnh dừng chân ở Phú Xuân nhưng cũng biết đến Gia Định (để về sau người ta lặn lội vào giúp Nguyễn Ánh đang lên), và gần hơn, là vùng Quy Nhơn có nhóm người kiệt hiệt làm lung lay quyền bính chúa cũ mà sự vững vàng ít ra cũng đập vào mắt người sứ thần Trịnh vào phong chức cho Tây Sơn: Nguyễn Hữu Chỉnh. Không có ông dòng dõi nhà buôn đang khinh miệt cái triều đình nho học ẩn tàng tranh chấp tập đoàn chủng tộc ruỗng nát ngoài kia đã làm bản thân ông điêu đứng, thì Nguyễn Huệ cũng không ra Bắc để sử gia ngày nay tán tụng: “Sau hơn hai thế kỉ bị phân chia bởi các hệ phái phong kiến, nền thống nhất đất nước được khôi phục.” (Nhấn mạnh là của nguyên bản Lịch sử Việt Nam I.) Do đó cũng sẽ không xảy ra “chiến công vĩ đại và hiển hách vào bậc nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc”, chiến thắng Đống Đa, bởi vì một lẽ giản dị là quân Thanh không sang để làm nhiệm vụ Thiên triều cứu thuộc quốc Lê. Thực tế là đã có các sự kiện kia xảy ra, nhưng như đã nói, điều đó là sự đưa đẩy của lịch sử, là do khả năng bành trướng quyền lực chứ không phải là nằm trong ý định tốt đẹp của những vị “anh hùng áo vải dẫn dắt một phong trào cách mạng nông dân (?!) làm nên sự nghiệp lớn cho dân tộc”.


Ngay cả với Nguyễn Ánh, “bờ cõi Nam Bắc gom về một mối” cũng chỉ là nói về sự kiện thống nhất khi đã thành hình chứ nó không nằm trong ý định của ông ta. Ông từng ngần ngại: “Bắc Hà là đất của Lê...” Tuy nhiên dưới quyền ông có những người gian khổ theo ông, đầy tham vọng hướng về sự thành công của chủ mà chưa từng hay biết gì đến quyền hành của Lê thì làm sao phải bận tâm đến vấn đề đất đai vốn là của Lê? Những cựu thần nhà Lê trông về đất cũ chỉ là những bầy tôi của phe mới, lòng hoài vọng thì có nhưng quyền lực phục hồi chính thống là điều không thể mơ tưởng. Cho nên quá khứ là dứt khoát không thể níu kéo, Đặng Đức Siêu gốc của Đàng Trong, Trần Văn Trạc hàng thần Tây Sơn mong mỏi lập công, cả hai đã thuyết phục được Nguyễn Ánh chớ ngại điều tiếng soán đoạt, vì lấy Bắc Hà là “lấy của Tây Sơn không phải của Lê”. Việc bỏ niên hiệu Lê, lên ngôi tuyên bố lập triều đại, góp thêm danh vị vào sức mạnh tràn bờ của lực lượng mới, lại cũng như một tiếp nối của sự kiện, không có ý nghĩa của một toan tính lí tưởng nào vượt ra ngoài quyền lợi của dòng họ, phe phía cả.


Nhưng chữ “thống nhất” người nay dùng trong trường hợp này mang ý nghĩa của một lí tưởng dân tộc - chủng tộc lớn: Tập họp đất đai chiếm được của một dân tộc, vốn phân tán trong tay các thế lực khác nhau nay vào tay một quyền lực xuyên suốt. Hàm ý thống nhất đó nằm trong quan niệm (ba lần) “dựng nước” (Phạm Huy Thông) với công cán khởi đầu của Hùng Vương, để quan chức sử thần mới mở rộng tán dương lãnh tụ vốn chỉ mới nói đến “giữ lấy nước”! Nhưng hiểu như vậy thì đó vẫn là sự che giấu một quan niệm bành trướng của những trung tâm, lấy ví dụ ngoài Việt Nam, là cho Xiêm La có quyền, có danh nghĩa chiếm nước Lan Xang (họ đã từng lấy được một phần), chiếm các lãnh địa mà phía Việt gọi là Lão Qua, Vạn Tượng... Với ý định đó, về sau người ta đã đổi tên nước là “Đất của người Thái”, trong mơ mộng lấn qua Lai Châu của Việt, muốn thu phục tập họp người Shan của Miến. Nếu có mơ ước về một “sứ mệnh thống nhất” như thế của những tập họp người khởi phát từ quanh vùng Vân Nam của Trung Quốc thì cũng chỉ là “lí tưởng” của những người cầm quyền ở Ayuthia, Bangkok, nhưng thực tế đã không xảy ra, như đã chứng thực đến nay cho người Thái.*

Rốt lại, vấn đề về sự thống nhất của Việt Nam xưa là sản phẩm đậm nét của thời hiện tại, có vương vất quan niệm của các vương triều về một thời hoàng kim học được từ phương Bắc, sự thống nhất ngày nay đã thực hiện được theo toan tính chính trị của một tập họp lãnh đạo mới với tổ chức khác hẳn trong quá khứ. Và đây mới là một sự thống nhất có chủ đích dự tính tuy lí tưởng nêu ra không phải đã che khuất hẳn tính cách bành trướng quyền lực từ một trung tâm, nổi bật là tính chất địa phương của một “trung ương” như thế. Hiểu “thống nhất” như một cùng đích, một nhiệm vụ lịch sử đặt để phải theo, tuy có lợi cho nhà chính trị nhưng lại không có ích gì cho việc tìm hiểu quá khứ vốn phức tạp và tiến triển theo những điều kiện đương thời chứ không phải theo tâm ý của người thời nay. Lịch sử chỉ là những tiếp diễn của sự kiện mà không có cùng đích. Một quan niệm lịch sử hiện đại hoá như đang được bênh vực, mang tính chất finalist trong triết thuyết, là của tôn giáo chứ không phải của khoa học. Muốn mượn ý của A. Comte thì phải nói là chúng ta vẫn đang đứng trong thời kì tiền sử của sử học, chưa bước vào thời kì có-sử. Và lẽ tất nhiên bất cứ sử gia có ý thức nào của Việt Nam ngày nay cũng không muốn mình vẫn cứ phải tụt hậu như thế cả.



CƠ SỞ CHÌM NỔI CỦA QUAN NIỆM THỐNG NHẤT


Sự thống nhất bao hàm ý nghĩa phục hồi một quyền lực được nghĩ rằng từng hiện diện, có danh nghĩa trọn vẹn trên một khu vực. Ý nghĩa đó là tâm cảm gộp lại của người một thời đại, nổi bật là thời đại ngày nay, để hướng ước mơ về một quyền lực lãnh thổ vốn không nằm trong tay (phe) mình. Lê Văn Hưu đặt Triệu Đà là người mở đầu nước Việt, đến khi thấy Ngô Quyền nổi dậy thành công một chút, cũng tự an ủi: “Tuy (Ngô Quyền) chỉ xưng vương... nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được.” Ngô Sĩ Liên mạnh dạn hơn, đã chỉ hẳn ra việc chiếm hữu lãnh thổ: “Tiền Ngô Vương nổi lên, tuy giết được con, phá được quân [của Nghiễm] nhưng không giữ được đất... mãi đến khi Tống Tổ nổi lên thì đất ấy mới nhập vào nhà Tống.”


Quyền lực lãnh thổ, ít ra là từ lúc có kết tập xã hội, được hiểu là thuộc về bậc chủ tể. Điều này lại co dãn theo với sức mạnh cụ thể của quyền lực ấy, vì thế mới có chuyện thu hẹp hay bành trướng lãnh thổ. Với quan niệm tổ chức chính trị thoát thai từ Trung Quốc thì đất là Vương thổ, nước là của Vua, có khi vượt cả trên quyền hạn thực tế của ông vua đang trị vì. Vì thế thống nhất trong ý nghĩa xưa, là sự chính thống, thuộc về một triều đại, không có ý nghĩa dân tộc như ngày nay tuy cũng bao hàm ý nghĩa bành trướng, soán đoạt như của quan niệm “dân tộc”. Lê Văn Hưu đã quan niệm lãnh thổ theo chiều hướng đó. Cũng cùng một quan niệm nên Ngô Sĩ Liên sắp xếp sử hồi cố, cho Quốc thống một thời thuộc về ông “Triệu Vương” (Triệu Quang Phục) thần nước, còn các nhà nho cuối Lê Trung hưng thì để dồn về ông vua Lê èo uột.


Với thời gian, khi tập họp người trên đất cựu phủ Đô hộ đã đứng chân vững chắc, không lệ thuộc trực tiếp Trung Quốc nữa, thì việc một ông quan Hán mở đầu nước Việt trở nên không hợp thời, nên Ngô Sĩ Liên liền đặt xuống dưới, thay thế bằng ông Hùng Vương cổ xưa, lúc này đã lớn mạnh trong truyền thuyết và càng có cơ sở vì tương tự với dòng họ đang trị vì. Thế là có “đại thống của Hùng Vương và Triệu Vũ” truyền đời “dòng mối ức vạn năm, với trời không cùng.” “Đại thống” đó ít nhiều gì cũng là tác động của tin tưởng về một thời Hoàng kim Nghiêu Thuấn trong Bắc sử mà nhà nho họ Ngô từng học thuộc lòng. Sách “soạn đã ba trăm năm” dưới triều một ông vua văn vũ toàn tài, nho thần đầy dẫy tất không thể xem thường được, cho nên tuy có so kè chi tiết (ông Hùng Vương hay ông Kinh Dương Vương đứng đầu?) mà sử quan Nguyễn vẫn khẳng định rằng “về việc gây dựng quốc thống nên bắt đầu bằng Hùng Vương.” (Cương mục, tập I, tờ Tấu nghị 11-7-1856.) Thế là ông vua Tự Đức làm thơ tán dương biết ơn ông Quốc tổ chẳng dây mơ rễ má gì với ông tổ họ Nguyễn cả. Đó không phải chỉ là cảm hứng lịch sử của nhà thơ, mà trong tột cùng còn là ý thức công nhận truyền thống để bảo vệ sự chính thống của dòng họ nhà mình.

Sử sách chỉ có một quyển, truyền thuyết chỉ có một dòng, hệ thống diễn giải chỉ có một nếp, người đời nay phải làm thế nào để hiểu sử xưa? Hình như định luật về sự làm biếng trong ngữ học cũng có ảnh hưởng trong suy luận sử học. Nói nghiêm chỉnh hơn, thì óc nhân tuần làm cho người đời nay không thể thoát khỏi sự kềm toả của người xưa dù sử gia có thể được quyền lực chính trị nương tay buông lỏng. Cho nên lịch sử các vương triều trong sách cũ vẫn cứ tiếp tục trong thời mới với giọng kinh điển Nho gia chuẩn mực, ngôn từ đường bệ cao sang mượn của phương Bắc, không biết rằng ngay trong triều đình vương giả, người ta cũng từng văng cả cứt đái, lồn dái vào mặt nhau. Tất nhiên phải có thêm vào dáng dấp khoa học của ngày nay, nhưng thay vì dùng khoa học như căn cứ mở mang kiến thức, người ta lại chỉ ghép vào để nối tiếp, biện minh cho sách vở xưa. Ngôn từ có thay đổi nhưng hình trạng thì cũng như Ngô Thì Sĩ thêm vào TT cũ, các câu chuyện “trâu ma rắn thần” nảy ra từ sau Ngô Sĩ Liên đến thời ông. Sử gia khoa học ngày nay lại đem mê tín mới, về trống đồng để chứng minh Bốn ngàn năm văn hiến từ Hùng Vương. Không phải chỉ nói chuyện ông vua vốn mang màu sắc “phong kiến”, người ta còn dẫn ra “nhân dân”, “dân tộc” đứng chân liên tục trên đất nước từ người Homo erectus: “Sau hàng chục vạn năm gian khổ lao động và sáng tạo, từ những công cụ bằng đá cũ thô sơ tiến đến sự phát minh kĩ thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước dùng cày có sức kéo là trâu bò, đời sống vật chất và tinh thần của người nguyên thuỷ Việt Nam ngày càng được nâng cao, từng bước làm thay đổi bộ mặt xã hội, đưa đến hình thành một lãnh thổ chung, một nền văn hoá văn minh chung và một tổ chức chính trị xã hội chung, đó là quốc gia và nhà nước Văn Lang – Âu Lạc...” (Đại cương lịch sử Việt Nam đã dẫn, tr. 33). Nghe như sự tán rộng từ lời sử quan về việc truyền đời “dòng mối ức vạn năm, với trời không cùng (tột)” cộng thêm với mớ bùa chú khảo cổ học mà thôi.


Đã theo thuyết “thống nhất” chắc như đinh đóng cột của Ngô Sĩ Liên: “Thời Hùng Vương đặt chư hầu để làm phên dậu, chia nước làm 15 bộ, có trưởng và tá, vua theo thứ bậc cắt đặt các con thứ để cai trị...” thì làm sao đọc ra được – cũng nơi sử sách xưa – chuyện con cháu ông Đinh Tiên Hoàng sau khi mất nghiệp đế bị người ta bắt làm nô lệ xây thành, trở thành gần gũi Man Lão? Thật ra thì sự “gồm một” như thế cũng chỉ mới được dè dặt đề cập phản bác gần đây mà thôi. Đối với các tập đoàn phía nam cũng vậy. Lỗi lầm nằm ở tài liệu để lại và óc giản tiện hoá của sử gia. Cả tập họp sử Việt, Trung Quốc ghi chép về Lâm Ấp / Hoàn Vương / Chiêm Thành, cùng với những dấu vết đền đài mang tính cách Ấn Độ hoá còn lại trong điêu tàn đã khiến người ta từ lâu cứ nghĩ rằng có một chính quyền xuyên suốt trên vùng bờ biển miền trung Việt Nam ngày nay, bỏ qua chứng cớ nội bộ về sự hiện diện của các bộ lạc Cau, Dừa trên các vùng khác nhau, hay không nghi ngờ gì về sự đối chiếu không thoả đáng với bia đá được phát hiện. Rồi cũng từng có một “đế quốc Phù Nam” to lớn dựa trên những mảnh tài liệu của sứ giả Trung Quốc đi thoáng qua, để các học giả Tây Phương bám theo và thắc mắc...

Nhưng với thời mới, trong tình hình thông tin mở rộng thì không dễ gì bỏ qua tai những điều không chính thống. Ông Trần Quốc Vượng, một sử gia nổi tiếng với sự nhạy cảm bạo gan ghép những ý kiến khác lạ gồm về mình, liền cũng tung ra sự hoài nghi về tính chất thống nhất đất nước được kể ngay từ Đinh. Và gặp phản ứng, phản ứng từ ông Trần Mạnh Hảo, một người cố phô bày tinh thần chính thống để chuộc lỗi li thân, từ lãnh vực văn chương văn học, nhảy qua sử học, nhân danh “quần chúng”, “truyền thống”. Ở Việt Nam, cả đối với người Việt Nam nói chung, vấn đề từ học thuật vốn dễ chuồi qua chính trị nên thường học giả nội địa khó phổ biến kiến thức khác dòng chính thống, nói chi đến tự mình nghĩ ra. (Đúng ra thì cũng vì sự tự giác ngăn cấm nên không thể nào nảy ra ý kiến riêng mà chỉ đành bắt chước người, lại còn phải chờ thời gian cho Lãnh đạo – và cả “quần chúng trung kiên”, “vỡ” ra để chấp nhận cái mới trong lúc nó đã trở thành cũ mèm rồi.) Qua thời kì tự nguyện áp đặt kiến thức trong chiến tranh, bây giờ là có chút “tự do phê phán” nhưng lại lộ ra sự áp đặt của “quần chúng” hình thành trong thời gian trước mà trường hợp trên là tiêu biểu: Người không chuyên môn nhân danh thành kiến đã định hình để lấn vào lãnh vực chuyên môn, bài bác những điều trái theo ý nghĩ thông thường – mà vốn là của thành kiến sai lạc.


“Và ngày rày, cái quan niệm quốc gia tổ quốc cũng phải nới rộng thêm. Những khẩu hiệu ‘con rồng cháu tiên’ không hợp thời nữa. Dân Việt đã trở nên, như hầu hết dân tộc khác, một dân tộc phức tạp: vốn gốc Văn Lang, nhưng trải qua gần nghìn năm Bắc thuộc, đã thành có lai Hán, lai Đường, rồi sáp nhập nhóm Thái, nhóm Chàm, nhóm Khờ-me, nhóm Nam-dương, nhóm Minh-hương, nhóm Khách trú, và ngày nay lại thêm lai Âu, lai Mĩ, lai Ấn, lai Phi. Nói tóm lại dân Việt nam là dân sinh và sống trên một giải đất chung, chịu chung một văn hoá dần dần tạo nên và tiếp tục tiến bộ...” (Chúng tôi nhấn mạnh.) Học giả Hoàng Xuân Hãn viết những lời trên vào năm 1974 (“Đúng ba trăm năm trước”, La Sơn Yên Hồ.., tập II, tr. 741) để bày tỏ tâm tình với đất nước một cách “trung lập”, cho nên bài chỉ đăng được ở Miền Nam, thật ra thiện ý đã muộn màng với tình hình lúc bấy giờ, và người ta không cho ông về nước là phải, dù có níu kéo bằng Huân chương Độc lập hạng Nhì theo kiểu “chiêu hiền đãi sĩ”. Vấn đề ở đây không phải là ý thức chính trị, lời kể lung tung nhưng là sự nhận định rất bình thường, rất động về quan niệm “người Việt, văn hoá Việt”, không phải thứ “người Kinh, văn hoá Đại Việt” ù lì, soán đoạt, ép buộc phải hiểu.


Và cũng phải đánh tan quan niệm sai lầm bắt nguồn từ quan niệm “quần chúng làm nên lịch sử” mới đây. Vua quan không phải chỉ là kẻ ăn hại, một thiểu số, mà họ đã có đóng góp khá lớn vào cả vấn đề nhân số nữa. Chuyện lại cũng bình thường: Vua quan, lãnh chúa ở vào tầng trên của xã hội, được hưởng những quyền lợi vật chất nên dễ dàng sinh sôi nảy nở. Và tuy khi có sự thay đổi triều đại, kẻ mất quyền bị giết, bị buộc thay đổi họ (họ Lí, Mạc ra họ Nguyễn, họ Trần ra họ Trình...) nhưng rõ ràng nếu không đổi, qua biến loạn lúc đầu, vẫn thấy họ xuất hiện trong triều mới, ví dụ tộc tướng Lí dưới triều Trần khiến sử quan cũng nghi ngờ chuyện Trần Thủ Độ tiêu diệt họ Lí. Họ Trịnh chắc cũng có sự dao động như thế, nhất là khi Trịnh Bồng thất thế, Chiêu Thống sai đốt phủ Trịnh không còn miếng gạch gỗ, nhưng Gia Long lên ngôi đã nhớ tình thông gia cũ, an ủi, cho lập từ đường, chọn người hương khói. Sự kiện họ Trịnh ngày nay hiếm hoi, có lẽ không phải vì sợ trả thù mà chính vì sự cô lập tự thân lâu dài mang tính tộc đoàn của họ ngay chính vào lúc đang cầm quyền khiến cho các mối gây liên kết với bên ngoài đã không thành công – cũng như họ Lê khi mới thấy vững chân ở Đông Kinh đã trả lại họ cũ cho con cháu công thần. Trong lúc đó, họ Nguyễn nhận kẻ thù thất thế (Mạc) với ý thức bao dung, đã co lại trong trong một độc quyền rộng rãi hơn (chỉ giữ riêng tập họp Nguyễn Phúc, Nguyễn Hựu) để chừa chỗ trống cho cả người khác chủng tộc (Chàm, Miên) mà không quan tâm nhiều đến sự “kị huý”. Riêng về vấn đề tự thân phát triển nhân khẩu thì ta cứ nhìn vào số con các ông vua Trần, 34 con của Lê Thánh Tông, số 146 người con của Nguyễn Phúc Chu. Nhìn về phía khác, đến như ông hoàng Chàm Chế A Nan được họ Trần dựng nên mà cũng có không dưới 200 người con, theo một chứng nhân tu sĩ dòng Franciscain đến tận nơi kể lại (D.G.E. Hall, A History of SEA, 1964, 181). Nguyễn đã mở rộng dòng giống mình với một “họ” không chính thức: Tôn Thất, đến nỗi trong lịch sử, ví dụ ta vẫn quen gọi ông Tôn Thất Thuyết quên mất đó là Nguyễn Phúc Thuyết. Nguyễn kéo dài “họ” mới từ những nhân vật trên đỉnh cao triều đình đến những ông Tôn Thất thất nghiệp, thất kinh trong xóm làng, trên đường phố. Và ông vua thứ hai nhà Nguyễn có con nhiều đến nỗi còn lời loan truyền về bài thuốc Minh Mạng “nhứt dạ lục giao sinh ngũ tử”, chả trách những Miên, Hồng, Ưng, Bửu, Vĩnh... đầy dẫy với Tôn nữ, Công tôn nữ, Công tằng, Công huyền... loạn xạ, cũng cao sang lẫn lộn cùng khổ như ai!



“THỐNG NHẤT” TỪ THỜi “DỰNG NƯỚC” ĐẦU TIÊN


Có hai vấn đề được khẳng định về sử Việt bởi người Việt cho đến nay, sự khẳng định có vẻ càng lúc càng đậm nét, không thể tranh cãi: Một là sự thống nhất lãnh thổ có từ cổ thời – ít ra là nơi vùng thường được gọi là cổ Việt, nghĩa là trên vùng Bắc Bộ và Thanh Nghệ Tĩnh ngày nay, và hai là có sự thống nhất về dân tộc Việt, điều thường được ghi trong giấy tờ chính thức ngày nay là “dân tộc Kinh” – để đối kháng với các dân tộc thiểu số / ít người. Nói “bởi người Việt,” là để cho thấy rằng đó không phải chỉ là khẳng định của người cầm quyền trong nước hiện nay tiếp lời lãnh tụ của họ: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” – một thứ khẩu hiệu cấp thời mà các thuộc viên đã sử dụng như chân lí khoa học làm nền tảng cho chính nghĩa chiến đấu, trong đó có các sử gia sử thần mới tự nguyện tán thành. Không phải chỉ người Cộng sản khẳng định điều trên, họ chỉ sử dụng quyền lực không tranh cãi của họ khiến cho nó trở thành “chân lí”, thứ chân lí mà những kẻ tỏ bày trái ý sẽ bị vùi lấp nhân thân và có thể gặp ngay sự đe doạ thân xác chứ không phải chỉ ở mức độ la ó, cùng lắm là chửi mắng của những “người Việt khác”. Tuy nhiên sự khẳng định vì quá đơn giản nên vấn đề tuy có hai mà nếu giải quyết được một thì sẽ bao gồm được tất cả.

Trước nhất, nếu đừng đem tâm cảm bướng bỉnh vào luận cứ, để bình tĩnh suy xét thì thấy rằng chẳng có chứng cứ sử sách thành văn khả tín nào nói đám dân Việt cổ đã thành lập “nước” có đủ 15 bộ từ các ông con cháu Thần Nông Viêm Đế cả. Người dựng dậy vua Hùng cho có mão áo xênh xang (Ngô Sĩ Liên) cũng bị người cùng phe Nho (Ngô Thì Sĩ) bài bác nhiều điều hữu lí. Có mượn khoa học mới, dẫn ra huyền sử, huyền thoại thì cũng phải tính bước thời gian, phải tính đến cơ sở bình thường của luận lí. Chớ lấy sách vở hỗn loạn của (chục) ngàn năm sau làm bằng cớ cho sự kiện chắc nịch của (chục) ngàn năm trước. Sử dụng huyền sử, huyền thoại, các khảo sát dân tộc học... là phương pháp bất đắc dĩ để tìm hiểu lịch sử các tập đoàn không chữ viết chứ không thể là thành phần chính trong việc nghiên cứu các dân tộc có liên hệ đến bằng cớ văn tự rõ ràng rồi. Ngay cả lúc bám vào văn tự mà không thận trọng tách rời truyền thuyết bồi đắp theo thời gian, sử gia cũng vẫn bị “hố” khi để thành kiến chung lôi kéo. Ví dụ khi lấy chuyện “anh hùng dân tộc” Thánh Gióng đánh giặc Ân để chứng minh tinh thần chống ngoại xâm của dân Việt từng có vào thời Hùng Vương (K. W. Taylor, The Birth of Vietnam, 1983, tr. 4-6; Chử Văn Tần, Văn hoá Đông Sơn – Văn minh Việt cổ, 2003, một ví dụ ở tr. 762), rồi nếu có ai đó tách rời các tài liệu, thấy Thánh Gióng với chi tiết biến đổi xác thân... chỉ xuất hiện chống ngoại xâm từ thế kỉ XV (có thể manh nha với thời kì Trần chống Nguyên), còn khởi thuỷ chỉ là một đống đá, có thể là cái đuôi ở đồng bằng của một dòng văn minh cự thạch kéo dài từ Thượng Lào (khoảng thế kỉ II) qua đỉnh trung châu ở Bạch Hạc, gặp ông Cao Lỗ thần đá lù lù cao lớn, gần ông Thuỵ Hương “người cao hai trượng ba thước” (Việt điện u linh tập), và còn có thể đi xa hơn về phía nam đến nơi có ải Ông Trọng (1184, Đại Việt sử lược), đến chừng đó thì sử gia ăn nói làm sao đây?


Phụ vào chứng cớ thành văn thì có thêm khảo cổ học nữa. Đi theo thuyết “đa trung tâm” về gốc gác người Hiện đại, sử gia nhà nước hẳn hãnh diện khi biết có học giả Mĩ, nhà di truyền học D. Wallace (1989), cho rằng nếu nhân loại phát xuất từ châu Á thì “có thể là ở phần đông nam châu lục này ví dụ như Việt Nam.” (Dẫn của M.H. Brown, The Search for Eve, 1990, tr. 285. Có thể thấy ghi chú Thẩm Khuyên trên bản đồ của Jh. Haywood, The Illustrated History of Early Man, 1995, tr. 28.) Học giả thế giới khi bênh vực cho lí thuyết của mình cũng không thiếu lời đôi co nặng nề, réo gọi cả đời tư đối thủ ra mà chửi, giở cả võ lực thô bạo, nhưng trường hợp bị lây lan bởi cái Vietnam Syndrome của mấy ông vòi tiền nhà nước này thì thật là quái gở! Tuy nhiên quả là liều mạng khi cho ông erectus Thẩm Khuyên với một hai cái răng khô, mảnh hàm xơ xác, mang tên địa lí bây giờ, lại đi thẳng một lèo tới ông Hùng Vương của Văn Lang có tên có tuổi trong khi các bộ sọ của Hoà Bình, Bắc Sơn thì lại được học giả Viễn Đông Bác Cổ nhìn thấy đủ đặc tính chủng loại australoid, indonesien... gì đó, còn người Lũng Hoà cho là nằm trong chuỗi Phùng Nguyên Đồng Đậu... thì cũng chính nghiên cứu gia Việt cho thấy mang dấu vết của “đại chủng Austranélo-négroide (nhánh Hải dương)” (Hoàng Xuân Chinh, Báo cáo khai quật đợt 1 di chỉ Lũng Hoà, Hà Nội 1968, tr. 163), những danh từ chuyên môn rắc rối nhưng đến người thường cũng thấy ngay là không có nghĩa “vàng” tí nào! Tất nhiên là học giả yêu nước không thể nào chịu đựng được việc người Việt cổ Hùng Vương lại có dấu đen hay trắng trong xương. Cho nên, dè dặt cẩn trọng thì mở rộng các khái niệm định chủng trên sao cho có dấu vàng (Hà Văn Tấn, Theo dấu các văn hoá cổ), còn thô lỗ quyền thế thì chụp mũ “vẽ đường cho nguỵ chạy” như đối với trường hợp sọ cổ Châu Can 1976.

Người hải ngoại biết đến chuyện chứng minh sự hiện hữu của Mitochondrial Eve (1987) cùng các thành quả mà các nhà di truyền học của Berkeley định dùng để đẩy lùi các ông đào bới vào hàng ghế sau, thì lại dẫn chứng mtDNA để bắt kịp với thời đại khoa học, và tìm ra cách thế mới mang uy tín đe doạ nhiều hơn. Tuy nhiên đó vẫn là nằm trong vòng biện minh, bởi vì vòng vòng cắn đuôi rồi cũng nhảy trở lại chỗ ông Lạc Long Quân và bà Âu Cơ với ông Hùng Vương! Giả thuyết của S. Oppenheimer và các thành quả về mtDNA mới đây không phải chỉ là sự lừa dối, nhưng đem áp dụng cho “vua Hùng” thì có dáng như một hứng khởi vì tìm được bằng cớ mới cho một thành kiến tự tôn, thiếu cơ sở của niềm tự ti che giấu (thuyết Việt nho... phát triển thêm lối Rao giảng cũ từ thời qua Mĩ với Ngũ Kinh, Sứ điệp trống đồng... trong hoang tưởng về một giải Nobel-mới tự đặt) của LM. Kim Định mà các “học giả” trong nước cũng đang bắt chước. Trớ trêu thay, việc “nguỵ ngóc đầu dậy” này lại khởi phát từ ông cựu Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam Nguyễn Khánh Toàn, mà nguyên cớ chính trị cấp thời là sự lấn hiếp của người anh lớn phương Bắc, Thiên triều cũ. Đem ảo tưởng về một đất nước văn minh tuyệt vời dạy cho học trò nhỏ, chỉ tập cho chúng tính huênh hoang “coi trời không bằng vung”, mai mốt lớn lên thật khó chen chân vào thế giới. Thật ra, như đã nói, đây lại cũng chỉ là sự biện minh hiện tại cho quan điểm “chính thống” về vua Hùng Quốc tổ, về một dòng người Kinh/Việt thuần chủng (dù đôi lúc xuê xoa) có thêm căn cứ khoa học lấn át.


Gần với các ông vua Hùng thì có các trống đồng, văn minh đồng thau với một dãy tên Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn đã trở thành niềm hãnh diện của VNDCCH và CHXHCNVN – và đủ sức thuyết phục “học giả” di tản, cùng những học giả Âu Mĩ không thấy có cách nào khác hơn. Trong tiến trình bành trướng quyền lực, người Cộng sản đã để lại ảnh hưởng rất lớn trên cung cách suy nghĩ, hành động của người Việt ngày nay, kể cả ở những người chống đối, cho nên cộng với sự bảo thủ truyền thống tiềm tàng, người ta không ngạc nhiên về sự theo đuôi học thuật kể trên. Nhưng bình tĩnh mà nói thì chẳng thấy ông vua Hùng nào kí tên trên trống đồng, dù là Hoàng Hạ hay Ngọc Lũ. Điều đó khác hẳn với sự thành công của khảo cổ học Trung Quốc với trường hợp nhà Thương Ân khi đem đối chiếu cổ thư còn giữ lại đời sau với giáp cốt văn trong các di chỉ. Các tên vua Thương Ân có rành rẽ ở hai nơi trong lúc các vua Hùng thì mãi đến thế kỉ XX mới thấy đưa ra trong thần tích ở đền chính, mà thiếu chữ Hán đặt đành phải ghép cả các ông Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân cho đủ bộ 18 ông. Danh hiệu lại có lúc không trùng tên với các ông “Hùng” trong các đình, miếu ở làng xã đang nằm lẫn lộn với con cháu, dâu rể vua, cùng tướng Hai Bà Trưng vốn gốc “tinh gỗ đá, quái côn trùng” như quan quyền nhà Nguyễn nhìn từ xa đã thấy ra! Chưa thấy ai tìm ra mối liên hệ của ông vua Hùng/Lạc được nhắc vài dòng trong sách vở còn lại khoảng thế kỉ V với các trống đồng được cho là trước đó khoảng một, hai ngàn năm cả. Thế là người ta cố công tìm chữ viết đời vua Hùng nhưng chưa ra, ngoài các vạch ngang dọc ngoằn ngoèo mà cứ cho là “chữ”! Ước mơ vẫn là điều tốt cho con người nhưng không thể lấy ước mơ làm sự thật.

Không tìm được vua Hùng thì tìm ông vua Thục kế cận vậy. Ở đây, có bằng cớ thành Cổ Loa được thần Kim Quy giúp xây dựng. Và là một điều (tưởng là) thành công của những người lấy huyền thoại xây dựng lịch sử. Tiếc thay khoa học hại người! Các nhà khảo cổ học Việt Nam đã cắt mặt thành (1960) thì thấy đất đắp thành thuộc đời Hán là sớm nhất. Thật khó hình dung kinh đô Âu Lạc độc lập mà nền đất rải ra toàn đồ vật Hán! Thế là có người đoán nền thành phía dưới (?) mới là thành Cổ Loa của Thục. Không lẽ thành trên “đồ” theo thành dưới? Luận cứ chầy cối thấy rõ nên các sử gia Việt Nam lờ đi thành quả khảo cổ học mà cứ thản nhiên coi ngôi thành sừng sững trước mắt là của thần Kim Quy dựng nên, nhất là khi đào được kho tên Cầu Vực (1959) như bằng cớ không thể chối cãi về thần thuyết lẫy nỏ móng rồng. Các sử gia sùng mộ Cổ Loa cũng nên biết học giả Trung Quốc đã khảo sát một thành loa ở phía nam địa điểm Ngô Gia, phần nam tỉnh Giang Tô ngày nay. Tác giả Kwang Chih Chang [Trương Quang Trực] (The Archaeology of Ancient China, Yale University Press 1972, tr. 390) là người ở Mĩ, khi viết không theo sát thực địa được, vả lại trong giới hạn đề tài không thể đưa ra nhiều chi tiết như mong muốn. Theo tác giả, thành này theo lời truyền tụng là vương thành của thuộc quốc Yên của Việt (Câu Tiễn). Thành có ba vòng, cũng tụ về phía nam như Cổ Loa, duy có khác là vòng thành Trung mang hình chữ nhật như thành Nội của Cổ Loa. Học giả VN có thể dò theo mà tìm hiểu thêm ở các đồng chí để suy nghĩ về Cổ Loa, thoát lối mòn cũ được không? Qua thời kì “tiểu bá, đại bá” rồi thì sự hợp tác hẳn sẽ giúp ích nhiều cho việc tìm hiểu quá khứ của đôi bên. Chúng tôi đã từng đoán mò theo nghĩa chữ Kiển Thành (thành Kén) và việc cắt mặt thành Cổ Loa mà cho là đó là của Mã Viện xây. Ông Đào Duy Anh tuy chưa biết (?) việc cắt mặt thành nhưng cũng dựa nhiều tài liệu để nghi ngờ Kiển Thành nằm ở Cổ Loa, với sự dè dặt dễ thông cảm: “di tích thành Cổ Loa ngày nay có lộn cả di tích của Kiển Thành”. (Đất nước Việt Nam qua các đời, Huế 1994, tr. 34.)


Không phải thành Cổ Loa chỉ hấp dẫn người Việt. Học giả Mĩ, qua cuộc chiến vang dội, cũng tìm cách thử xem quá khứ của đám dân cầm chân đội quân B. 52 của mình có cái gì vẻ vang không. Và ông Stephen O’ Harrow tìm đến Cổ Loa, thấy đó là “một chứng cớ gây ấn tượng về quốc gia tương đối phát triển trong hoạt động của người tiền-VN vào thế kỉ III tCn.” (“Từ Cổ Loa đến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng: Việt Nam dưới con mắt người Trung Hoa,” Nhiều tác giả, Những vấn đề lịch sử Việt Nam, Nguyệt san Xưa và Nay, Nxb. Trẻ 2001, tr. 10). Chữ tiền-VN nếu còn làm cho sử gia Việt không bằng lòng thì trong một bài khác, tác giả này đã dùng hẳn chữ Việt Nam : “Sự tồn tại của một thành luỹ rất lớn ở Cổ Loa, điểm hội tụ cuối cùng hồi tiền Bắc thuộc của vương quyền Việt Nam (nơi xuất phát huyền thoại An Dương Vương) quả thật đã góp thêm mức độ tin cậy vào ý tưởng cho rằng đã có sự thống nhất chính trị đầy đủ...” (“Người Hán, người Hồ, người Bách Man – Tiểu sử Sĩ Nhiếp và khái niệm về Việt Nam cổ đại,” sđd, tr. 48. Các người dịch không ghi năm ấn hành của nguyên bản nên chúng tôi không biết thứ tự các bài dẫn trên.) Tuy tác giả có dè đặt nói đến “một phức hợp liên kết liên minh với Cổ Loa là trung tâm” nhưng thế cũng đủ cho học giả Việt Nam thấy có “người nước ngoài” đồng ý về một sự “thống nhất chính trị” trên vùng cổ Việt để theo ý nhà chính trị đương quyền, bài bác các tên nội hoá mang tinh thần nô lệ, tự ti dân tộc với đầu óc “phản động” đã dám nói khác đi bằng “những điều không bổ ích gì cho trí óc”.


Sử gia ngoại quốc tất nhiên không bị ràng buộc bởi chính quyền Việt như sử gia bản xứ viết về nước Việt. Tuy nhiên rõ ràng họ có chịu ảnh hưởng gián tiếp từ những chiến thắng của người cộng sản Việt. Điều đó thì lại cũng không có gì là lạ. “Lịch sử thuộc về kẻ chiến thắng” (W. Churchill). J.K. Fairbank (China, a New History, 1992) có nhận xét là sách vở đương đại về lịch sử Trung Quốc thật phồn tạp chi tiết đối với khu vực Diên An nhỏ xíu, xa khuất của cuộc trốn chạy vĩ đại, chỉ tồn tại nhờ Nhật Bản xâm lăng khiến Tưởng Giới Thạch không rảnh tay tiêu diệt kẻ nội thù. Trong khi đó người ta bỏ lơ với phần đất của Quốc Dân Đảng bại trận và khu vực đông đúc dân cư đến tuyệt đối do “quân phiệt” Nhật Bản chiếm đóng! Các luận thuyết bàn về Việt Nam, thường liên hệ nhiều đến chính sách, dư luận Mĩ, bàn như sự đã rồi trước mắt, nên đôi khi có vẻ hơi ngớ ngẩn trong uyên bác. Những cách ứng xử linh hoạt, những hành động có hiệu quả lấy từ thực tế địa phương, khu vực của người cộng sản có khi được coi như hàm ý một triết thuyết thông minh mang bản sắc Á Đông, dân tộc nhằm xây dựng xã hội tương lai mà họ chiến đấu (F. FitzGerald), nhưng tác giả không thấy rằng đó chỉ là phương tiện nhằm mục đích cuối cùng là cướp chính quyền theo kiểu chuyên viên bônsêvich, bởi vì rõ ràng sau khi thành công, người Cộng sản Việt gặp ngay sự hụt hẫng, lại phải mượn tiếp các chính sách xây dựng của Liên Xô, chẳng thấy sáng kiến “dân tộc” nào nở nang thêm, và cứ liên tục thất bại để rồi chuyển qua “đổi mới”. Học giả ngoại quốc mang mặc cảm người thống trị, cố mở rộng tầm nhìn để chấp nhận ý tưởng của người bị trị trong cuộc, nhưng không thấy rằng các ý tưởng đó có khi là từ người lãnh tụ học collège (high school) mớm cho anh Đại học bản xứ thuần phục, để thành có dáng tri thức cao cấp. Cơ sở của những diễn giảng này thật ra cũng không phải do các lãnh tụ bịa đặt, nhưng chính là căn cứ trên các tin tưởng bình thường trong sử cũ được đem bồi đắp bằng tinh thần cách mạng qua các sách ABC cộng sản và lan toả bằng quyền lực mới chiếm được. Học giả ngoại quốc khai thác thêm về “tinh thần yêu nước chống xâm lăng”, vềà luận thuyết “cách mạng nông dân” gần gũi với “hơi” cách mạng của họ, nên cứ chép tiểu sử dòng dõi, cá nhân lãnh tụ đương thời y theo các bản tụng ca (hagiography) in trên hàng vạn tờ giấy chứ không chỉ khắc trên một, hai tấm bia đá mòn sứt như xưa kia. Họ không biết, ví dụ chuyện anh trí thức nguỵ làm việc cho triều đình mới để tránh “cải tạo,” và bài nghiên cứu được đưa vào một luận án ở Pháp về chủ nghĩa thực dân văn hoá mới trong khi tác giả đã vượt biên – cũng giống như trường hợp một tác giả khác viết về Phương thức sản xuất châu Á, vượt biên năm 1976, còn bài vở vẫn được in lại trong nước các năm 1980, và được nhắc nhở như của “phe ta” cả đến năm 2000.

Sử phẩm, cũng như một số nghiên cứu ở các ngành nhân văn khác, không bao giờ là một công trình hoàn thiện cả. Chỉ có điều, phải bắt đầu trên cái có thật chứ không phải là ước mơ, càng không phải là dối trá, lấn lướt, làm để phụ hoạ, chuộc tội cuối mùa. Ngày nào đó, trên đất Việt, có thể tìm ra những chứng dẫn không ai ngờ tới, nhưng cho đến lúc này thì hãy bắt đầu bằng những điều đã được chứng thực.


Triệu Đà có nói đến những lãnh chúa ở phía nam nước Nam Việt của mình, có kẻ “ở trần mà cũng xưng Vương” (179 tCn.). Vậy thì có tập họp những ông Hùng Vương đâu đó sau này được lưu dấu tích ở vùng đỉnh tam giác châu sông Hồng, cũng không phải là điều hoang đường. Tuy nhiên không thể cho rằng các ông ấy trông coi 15 bộ (hay bộ lạc) mang các tên lộn xộn, bát nháo của thời Bắc thuộc. Sự việc vùng Giao Châu vào khoảng đầu Công nguyên có dân đông hơn Quảng Châu dễ dẫn đến suy luận về một tổ chức chính trị nào đó đã được thực hiện nơi đây, nhưng đó cũng chỉ là thắc mắc, phỏng đoán. Hay nếu có thể bạo gan so sánh thì thấy rằng trên vùng Tây Nguyên ngày nay với gần một triệu người “Thượng” (nhiều sắc tộc) mà đến cuối thế kỉ XIX, trừ một vài tay phiêu lưu chiếm đoạt và ảnh hưởng của Chàm tràn đến, họ chỉ có tổ chức buôn, pley là cao nhất – các ông vua Lửa, vua Nước chỉ là của hệ thống thần quyền (cũng tạm coi là giống ông vua Hùng của Đại Việt sử lược). Kết quả khảo cổ học Việt Nam không cho thấy như trường hợp các di chỉ Ân Khư, Trịnh Châu đối với nhà Thương Ân để kết luận vùng Nghĩa Lĩnh là một thứ kinh đô, hay ít ra, là một trung tâm của liên minh rộng lớn nào đó. Các trống đồng được cho là tột đỉnh của văn minh Đông Sơn, của “thời đại Hùng Vương” thì những tiêu bản xưa lại được tìm thấy ở trên vùng đồng bằng hay gần đó. Ngôi mộ Việt Khê dồi dào vật tuỳ táng của thế kỉ VI tCn. thì nằm ở vùng biển. Địa điểm khai quật đầu tiên đủ tiêu biểu cho cái tên của nền văn minh đó thì ở mãi tận Thanh Hoá. Tất nhiên các chứng cớ vật chất đào bới được có thể dùng chứng minh cho một trình độ sinh hoạt “thời Hùng Vương” chứ chưa thể chứng minh cho sự xưa cũ của một thời Hùng Vương như người ta muốn có. Kết quả đào bới, nếu không dùng để làm “khảo cổ học (phục vụ) thần/huyền thoại” (và chính trị đương đại) thì vẫn còn đó, nếu được ghìm giữ trong tinh thần thực tiễn, rà soát loại bỏ những bộp chộp của thời kì nồng nàn tinh thần “yêu nước (phải) là yêu chủ nghĩa xã hội”, tất sẽ giúp cho sử gia làm “khảo cổ học lịch sử” như ông Hà Văn Tấn đã “định hướng” hơn mười năm trước đây (1991). Theo các chứng cớ về sau (Lí, Trần) thì việc trong thời gian trước có những tập đoàn người khác nhau đến chung sống, hay cầm quyền đem đến những đổi thay, cũng là điều bình thường, chấp nhận được, như âm hưởng có thể thấy trong chuyện Thục Phán “con vua Thục”.



TỪ SỰ TAN RÃ CỦA PHỦ ĐÔ HỘ AN NAM ĐẾN TRUNG TÂM HOA LƯ


Vậy thì cũng vẫn phải theo các chứng cứ, ta phải dõi theo sự hình thành của tập đoàn người ở thuộc địa phương nam của Trung Quốc từ Hán tới Đường trong tương quan bành trướng của người “Hán”. Trước nhất là giải quyết vấn đề danh xưng tộc “Việt” còn lại đến ngày nay. Đã có khảo cứu muốn tìm phát tích của dân Việt ngày nay là từ sự tan rã của nước Việt Câu Tiễn bị người Sở chiếm đóng (L. Aurousseau), và tuy bị bài bác nhưng cũng được K.W. Taylor điều chỉnh trong luận án nổi tiếng của ông (The Birth of Vietnam). Nhưng sự bảo lưu lâu dài và sâu đậm như đã thấy không thể do những kí ức mong manh tận trong thời sơ sử mà phải là từ những chứng cớ truyền đời được ghi chép cẩn thận, ở đây là cách nhìn của tầng lớp thượng lưu nắm quyền đất “Việt”, về Triệu Đà và nước Nam Việt của ông. Khởi đầu ở địa phương chỉ biết có một nhóm được gọi là “Lạc dân” nhưng sử quan Hán từ phương bắc nhìn đám Bách Việt tan tác đã gán thêm một nối kết cho dân đó: “Lạc là Việt.” Triệu Đà trong một thời gian dài được sử quan Việt về sau coi như thuỷ tổ của nước mình, nên các danh hiệu Nam Việt Quốc, Nam Việt Đế được sử dụng một cách không thắc mắc, lại còn được hãnh diện là khác. Các triều đại Đại Việt xuất phát từ đồng bằng là gốc Trung Hoa hay là từ vùng đất nay là Nam Trung Hoa tới (Lí, Trần, chưa kể Mạc) nên quan tâm tới Triệu Đà, nhận là ông tổ khai sáng nước mình cũng là điều dễ hiểu. Vùng Lưỡng Quảng ngày nay vẫn xưng là Việt theo một chữ Hán khác. Họ Lưu cai trị trong vùng này thời đế quốc Đường tan rã, vì có tham vọng lên tận phương Bắc nên đổi tên nước là Nam Hán, bỏ tên địa phương Đại Việt. Lí gốc Mân cũng không xa lạ với tên Đại Việt nên chuyển làm tên của vương quốc mình, bỏ chữ “Cồ” thô lỗ của vương triều trước. Trần trong thế chống Nguyên càng nâng cao sự bám víu vào địa phương. Thế là truyền thống đủ dài để có sự vững bền. Rồi đến thế kỉ XV, ông Hùng Vương thế ông Lạc Vương, chỉ còn chữ Việt hiện diện liên tục qua thời gian, đến thời Nguyễn Ánh Gia Long, đến ngày nay, không màng đến những pha trộn, biến đổi nhân chủng tiếp nối.


Không thể coi nhẹ thời gian dài đến hơn ngàn năm dưới sự cai trị của những chính quyền thay đổi nhưng cùng một hướng tiến Hoa hoá. Không thể coi nhẹ những dòng người di cư vì biến loạn đến từ phương Bắc, có ghi chép rành rẽ, và dẫn đến sự nổi dậy của những người cầm quyền địa phương, lai rõ rệt, như trường hợp Lí Bí/Bôn mà vương hiệu vì có chữ “Việt”, lại được cả sử gia ngày nay nhận cùng phe, mở đầu danh vị nước. Hiện tượng “vàng hoá” mà các nhà cổ nhân học nhận thấy biến đổi trên các bộ xương khai quật là kết quả rõ rệt của thời kì này. Chưa kể những cuộc di chuyển gần hơn mà ta chỉ biết khi có những biến động lớn, ví dụ cuộc lấn chiếm của Nam Chiếu với chủ thể tộc Thái ở nền tảng vào thế kỉ IX, và còn thấy bóng dáng đến thế kỉ XI. Chứng cớ liên tục lâu dài nhất mà người ta vẫn lờ đi, đó là trường hợp tập đoàn các họ Mạc. Những gì thừa hưởng từ thời thuộc địa không phải là cái ơn, những gì dựa vào đó để đổi thay cũng không phải là mối nhục. Những than khóc, căm ghét, giận dữ hay kiêu ngạo vênh vang của Lê Văn Hưu gần với người đời nay hơn với Ngô Sĩ Liên, nhưng cũng chỉ là của đời Trần chứ không thay đổi được gì cái quá khứ mà chính tông tộc chủ ông cũng đang thừa hưởng để kế tục hoặc gánh chịu chống đỡ. Quá khứ đó đã dẫn đến một thời kết thúc nền ngoại trị đưa dần đến nền độc lập của một tập đoàn người cũng đổi thay theo với thời gian.

Không phải ngẫu nhiên mà tất cả các nước thoát vòng bành trướng của Trung Hoa ở phía nam đều nằm dưới Bắc vĩ tuyến. Khả năng phát triển quyền lực phát xuất từ trung lưu Hoàng Hà cũng phải có giới hạn. Rừng núi phía tây nam ngăn cản họ, chỉ để dành sự bành trướng cho các tộc người ở gần: tộc Miến Tạng vào trung châu Irrawadi, Saluen, tộc Tày Thái vào Menam, Mekong phát triển lực lượng đương cự người Hán khi họ đủ sức lấn xa. Trung châu sông Hồng có đường thông với phía bắc, dễ thấy bóng dáng quân Hán nhưng cộng với số đông còn có một khí hậu nhiệt đới ngăn chặn mà quan quyền binh lính ở Hoàng Hà chưa đủ sức khắc phục: Lại cũng không phải ngẫu nhiên trùng hợp mà các tờ trình địa phương, các cuộc chiến tràn lấn đều thấy bóng dáng của việc người chiếm đóng than vãn, không chịu đựng nổi sự khắc nghiệt của thuỷ thổ. Cho đến khi các kinh đô Hán dời xuống phía nam gần với thuộc địa, mang áp lực đe doạ nhiều hơn thì dân thuộc địa đã lớn mạnh hơn!


Sự lật đổ một quyền bính bao giờ cũng đòi hỏi một phản ứng ngược. Sự lật đổ một nền ngoại trị phải đưa đến một quyền bính địa phương – hay dựa trên địa phương. Thuộc địa tách ra khỏi chính quốc thời Đường mạt qua trung gian chức Tiết độ sứ tự phong trước, và xin phong sau: họ Khúc, họ Dương, vướng víu cho đến họ Đinh. Rõ ràng Hoa Lư của thế kỉ X là tụ điểm của cao trào li khai đó. Từ bất cứ lúc nào, trong tổ chức ngoại trị người ta vẫn phải cần đến người địa phương. Đây không phải là một sự hợp tác đáng đề cao hay phải khinh miệt, mà là kết quả của nhu cầu thực tế từ người cai trị cũng như kẻ bị trị. Đã có nhiều ví dụ được trưng dẫn. Lạc hầu Lạc tướng mang ấn đồng thao xanh làm huyện lệnh, một chức quyền không nhỏ trong tổ chức cai trị Tần Hán, ở đây hẳn là đặt trên những khu vực mà phần tuyệt đối là dân tại chỗ. Có những người leo lên đến chức Phó Đô hộ. Thứ sử Ngô Mân của dòng dõi ở Đường Lâm không phải là trường hợp cá biệt. Và chính sự kế tục cũng đem lại thành công cho đời sau: Ngô Quyền thắng quân Nam Hán là dựa trên cơ sở vật chất và ý niệm chiến lược của quan đô hộ thế kỉ VIII, IX. Ai không có chức quyền của trung ương thì vẫn nắm thực lực như trường hợp Phùng Hưng khuất lấp dưới vai trò của Đỗ Anh Hàn theo cách nhìn của sử quan Bắc sử. Trường hợp Vua Đen với tên Hán Việt Mai Thúc Loan được giữ lại là dấu vết khác về sự hiện diện của lãnh tụ địa phương, đồng thời còn có dáng như chỉ dấu thêm về sự hiện diện của những tập đoàn chủng tộc phức tạp ở phủ Đô hộ, giống như chứng cớ ở việc tách ra thành nước Lâm Ấp thời thuộc Hán trước kia.

Thắng trận xong mà Ngô Quyền vẫn chưa đặt được tên nước để vẫn còn danh xưng Đô Hộ (quốc). Và sự bành trướng của Lí, Trần về sau chỉ là sự gom góp những mảnh vỡ của thuộc địa phương Bắc từ một trung ương tại chỗ với Thăng Long thay tên cho Tống Bình, Đại La. Thời loạn là cơ hội của dân phiêu lưu tranh giành quyền lợi với các tập đoàn tông tộc có cơ sở vững vàng. Biến động gọi là Thập nhị sứ quân có nhiều phe nhóm như ta đã thấy, thế mà trong các tên còn lưu lại, những thủ lĩnh sông nước mới vừa di cư đến đã hiện diện tới ba tên. Thần tích xa đời vốn có nhiều điều sai lạc, nhưng truyện tích đã trải qua các thời kì dân tộc quá khích cao độ mà vẫn giữ nguồn gốc chủng tộc của các lãnh tụ chứng tỏ sự khả tín một chừng mực của phần căn bản đó.


Phản ứng chống ngoại trị chứng tỏ trong sự co rút ở hang động Hoa Lư. Không nói đến những vùng xa hơn, phía bắc gần Hoa Lư, các vùng Bố Hải Khẩu, Nam Sách còn thuộc các chủ đất cũ mà sự “phong tước” chỉ là cách nói văn hoa theo cung cách của một chính quyền địa phương mới, bắt chước lề lối trung ương của chủ nhân ông cũ. “Thứ sử” Ngô Mân hay “Thứ sử” Đinh Công Trứ có vẻ đã xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử đó. Cũng tương tự là cách nói đối với “Ái Châu Cửu Chân Đô quốc Dịch sứ” Lê Lương về phía nam, vị lãnh chúa có toàn quyền trên đất đai tông tộc của mình mà được coi như là “người sai phái của Trung ương đến trông coi đất Ái, Cửu Chân của nước Đô (Hộ)”. Đã có một Đô Quốc thì cũng dễ liên tưởng đến những Cồ Quốc, Kiểu Quốc, Trịnh Quốc gả cho các vua Đinh Lê, dấu vết phai nhoà dần, đến Lí tập trung hơn nên chỉ còn Tá Quốc, lấn lướt Lập Giáo. Rồi lại cũng như trường hợp Đinh Liễn nằm ở Cổ Loa trước kia, Hoa Lư cũng có họ Nguyễn (Bặc), họ Phạm (Hạp)... làm con tin để gặp cơ hội Đinh suy sụp thì tranh giành quyền bính. Tính chất bành trướng từ một khu vực ẩn tàng trong binh lực, cho nên người nắm quyền Tổng tư lệnh như Thập đạo tướng quân Lê Hoàn sẽ thắng thế là lẽ đương nhiên.

Danh hiệu vương đế chỉ khoác thêm áo cho người ở trần, không che hết quá khứ tầm thường – bình thường cũ. Quê hương của vị hoàng đế tương lai là một “sách”, tên của một đơn vị cư trú chưa được coi ngang bằng với “hương” của quan lại trung ương nằm ở La Thành. Cho nên Đinh Bộ Lĩnh có chăn trâu cũng không với nghĩa tôi đòi như gần đây. Nơi ở có sông nước, bến đỗ (sách Đào Áo, Tế Áo) thì có chuyện đánh cá không phải là lạ. Bà mẹ ở cùng “năm bà lão” là chuyện chưa hiểu được nhưng có thể liên hệ với dấu vết “bên cạnh đền thờ thần” để thấy một sinh hoạt thần bí bình thường nào đó của đương thời. Đinh Tuệ mất nghiệp vẫn phục vụ ông chúa mới đến chết, là sự công nhận một quyền hành thay thế tại chỗ, là dấu hiệu sa sút khởi đầu. Cho đến khi bị tập đoàn cầm quyền khác giết người đại diện (Điện tiền chỉ huy sứ Đinh Lộc 1041) thì tông tộc xa gần bị sắp xếp vào vị trí gần với bọn Man Lão thấp kém cũng là thuận chiều suy thoái mà trở về với sinh hoạt xưa cũ. Ông vua Lê kế tiếp cũng dẫn sứ nước lớn (Tống Cảo, 990) coi mình chân trần đi câu, được cá thì cả quần thần vỗ tay hoan hô!


Chiến thắng trong, ngoài (Tống, Chiêm) đưa quyền bính Hoa Lư mở rộng ra với Lê. Các con của Lê Hoàn được phong vương tước quản trị các vùng đất chung quanh. Hẳn đây là ý kiến của Thái sư Hồng Hiến, từ đó cho thấy quan niệm tổ chức của người chủ cũ đã trở về thành “yếu tố bên trong” của quyền bính địa phương co rút, sẽ mở đường cho những đổi thay khác, không cưỡng được. Tuy nhiên Hoa Lư vẫn còn bản sắc riêng của nó. Lãnh chúa địa phương vẫn còn quyền lực, điển hình là các quản giáp Dương Tiến Lợi và Lưu Kế Tông tuy Lê Hoàn đã mở rộng khu vực nắm quyền theo việc dẹp Dương Tiến Lợi cùng với việc lấn chiếm đất con cháu Lê Lương. Các đất phong là đầu mối của những lực lượng phân li khi có sự tranh giành. Mối liên hệ với Chiêm Thành, dù qua chiến tranh, ít nhiều gì cũng cưỡng lại sự hấp dẫn hướng về phía Tống. Đất Việt có hai ông vua Chàm ở Hoa Lư (giống như đất Chàm có Lưu Kế Tông, quản giáp cũ của Việt), tuy ngắn ngủi nhưng cũng có dấu hiệu tác động từ xa về phía nam qua các sự kiện ghi hời hợt, có khi bị công kích chỉ vì sử quan không hiểu ý nghĩa của chúng: Vua ăn thịt giông/kì nhông, vua chết không có tang lễ (kiểu Nho), có người họ ngoại (hẳn nhiên là Chàm: tên Lê Hấp Ni không có vẻ gì là Hán Việt cả) đến quản lĩnh đất Đằng Châu xa trên vùng trung châu phía bắc, nơi được coi là đất phong của Lê Long Đĩnh / Ngoạ Triều, con bà phi Chàm. Tình hình mở rộng khu vực quản lí đòi hỏi một dạng liên minh mới mà các thế lực ở quanh phủ Đô hộ cũ càng tăng dần quyền lực. Có lẽ khi chăm chú mở đường đánh phía nam, toan tính chiếm đất của mẹ, Lê Long Đĩnh cũng muốn tìm thế lực quân bình mới đối với vùng trung châu phía bắc, cụ thể tập trung vào, cũng một tướng lãnh, Điện tiền chỉ huy sứ Lí Công Uẩn. Và cũng là tìm uy thế chống lại sự bất mãn với cá nhân ông vua tăng cao, hiển hiện muộn cho người sau thấy ra là các câu chuyện tố cáo tính tình hung ác, quái gở của ông này. Nhưng rốt lại sự thắng thế đã về với nhóm lưu vong để có sự dời đổi trung tâm bành trướng mới. Nhìn chung thì sự thu hút về phía Bắc cũng là điều dễ hiểu. Với tình hình thời đại còn kéo dài đến nhiều thế kỉ sau thì thế giới Trung Hoa là độc nhất trong vùng, quá khứ thuộc địa còn lưu giữ và sự hiện diện của các tập họp lưu vong như đã nói chỉ là nhân tố nội địa để sự lôi cuốn Trung Hoa tiếp tục mà thôi.


Trung tâm Hoa Lư có đời sống kéo dài chỉ 42 năm (968-1010) nhưng không phải mất tác dụng sau khi bị buông bỏ. Ngay đương thời, khi có dòng họ mới cai trị, sự kế tục vẫn được lưu ý theo hình thức: Viên quan tiếp Tống Cảo có họ Đinh, mang chức “thừa chính”, tỏ cho người ngoài biết sự chuyển đổi là êm xuôi, thuận lí. Nhưng đến khi bị hạ cấp thì có phản ứng chứng tỏ sức mạnh địa phương. Dằng dai. Trong cả sự liên hệ thần-người của tin tưởng thời đại. Hoa Lư là trung tâm tranh giành quyền kế vị bên trong họ Lí sau khi thất bại ở Thăng Long (1028). Có lẽ điều này cũng là nguyên nhân tấn phong thần Đồng Cổ bảo trợ Hoa Lư, gán cho công tích báo mộng việc Tam Vương khởi loạn. Thần là kẻ chứng minh cho sự thề bồi, có lẽ mang nghi thức đánh trống đồng của các tập họp người trong địa phương phía nam (còn thấy ở tập đoàn Lam Sơn về sau) mà chữ nghĩa văn hoa gọi là “Thiên hạ minh chủ thần”. Bây giờ thần trở nên người làm chứng cho sự tuyên thệ trung thành ở Thăng Long, như một minh chứng cho sự kế tục Hoa Lư - Thăng Long. Nhưng về phía thế tục vẫn có sự đề phòng: Ngôi thành vững chắc được xây ở Hoa Lư không phải của Đinh Lê mà của Lí Thánh Tông với các viên gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (1057). Hai trăm năm sau còn có cuộc khởi loạn của “kẻ (Đinh Khả) tự xưng con cháu Đinh Tiên Hoàng” được gọi là giặc Đại Hoàng (1198, 1203-1205, 1214). Cựu đô Hoa Lư tàn tạ sau đó chỉ trở lại cuối Trần với chứng cớ tiếc thương, hoài cổ của Trần Nguyên Đán.


TRUNG TÂM VIỆT HOA THĂNG LONG


Đặt tên Việt Hoa cho trung tâm Thăng Long thật dễ gây sốc cho người ở thời đại chủ nghĩa dân tộc dâng cao bây giờ. Tuy nhiên đó lại là sự thật không thể phủ nhận về việc trong bốn thế kỉ có kinh đô là Thăng Long, chủ quyền đã thuộc về những tông tộc có nguồn gốc Trung Quốc. Có điều, khác với nước Nam Việt xưa kia, Triệu Đà nhớ đến mồ mả tông tộc nằm ở phương Bắc, chỉ bắt chước dân Việt ngồi xổm tiếp sứ Hán, nên cuối cùng lãnh địa lại thuộc về Hán, còn Lí Trần tuy không quên gốc gác nhưng lại gắn liền sinh mạng tông tộc của mình với tên nước Đại Việt giành của Nam Hán buông bỏ, lấy chính danh cho cựu thuộc địa, ít nhiều gì họ cũng bị lôi kéo bởi đám dân chúng dưới quyền để tách ra hùng cứ một phương. Những lời cảm thán của Lê Văn Hưu là kết tụ cao nhất của tinh thần độc lập ấy. Lí ý thức sự khác lạ của mình nên không để sử quan ghi chép nguồn gốc tập đoàn xuất thân. Triều đại Hồ cuối thời đại, tuy còn nhớ gốc Trung Quốc của mình nhưng vì tính cách xa đời khác hẳn với Lí Trần, nên hãnh diện nhắc tới Ngu Thuấn, đổi tên nước là Đại Ngu. Điều đó đã chứng tỏ sự tự tín địa phương hoá và tiến trình phân li không thể đảo ngược được của những người ở địa vị lãnh đạo nước Việt.

Lí có nguồn gốc Trung Quốc đã là điều khẳng định bình thường với người có đọc sách ngày nay từ khi quyển Lí Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn ra đời năm 1949. Trần cũng vậy. Vùng đông nam Trung Quốc là khu vực xuất cư liên tục và lâu dài của lưu dân Trung Quốc. Tất nhiên nếu chi li thì có thể nói những người ấy không phải toàn có gốc gác tổ tiên đơn thuần của vùng Hoa Hạ trung lưu Hoàng Hà mà còn là các dân tộc địa phương đã nói tiếng Hoa (phương ngữ) trong quá trình pha trộn giống phức tạp theo với thời gian. Như rõ rệt với họ Mạc chẳng hạn.


Lí có điểm dừng chân trên đất Việt còn được xác định đến ngày nay với các đền đài, lăng mộ làm chứng tích. Đám lưu dân này vì lẽ gì giật được chính quyền từ tay nhóm “man lão” Hoa Lư? Có lẽ tự bản thân lưu dân, họ đã có sự năng động liều lĩnh trong việc tìm kiếm cơ nghiệp nơi đất mới. Cũng có lẽ họ không phải là những cùng đinh cơ khổ mà là từ những tập đoàn thượng lưu tan rã nơi đất gốc khiến cho họ có đủ khả năng nổi bật trên đất đến nương nhờ. Họ đến phục vụ trong thời gian trung tâm Hoa Lư gặp sự khủng hoảng khi bành trướng mà tính chất cai trị bằng quân lực rõ ràng là không đáp ứng được nhu cầu của tình thế, tuy việc đảo chính đưa họ lên ngôi vị chính vẫn còn theo lối cũ, nghĩa là thủ lãnh quân sự nắm quyền. Việc tranh ngôi thời Lê đã xảy ra trên bình diện địa vực rộng trong lúc việc tranh ngôi thời Đinh trước đó chỉ dồn lại trong cung đình với một ít lan toả hạn hẹp. Lê Long Đĩnh cải cách theo Tống hẳn là làm việc đổi mới cho kịp thời thế. Thế là phe lưu vong gốc Trung Quốc mạnh hơn lên. Trước kia họ đã có Thái sư Hồng Hiến mà những ngày giúp Lê Hoàn chắc đã đưa người cùng xứ vào không ít. Phương diện tôn giáo thần thánh thì có Khuông Việt Đại sư Ngô Chân Lưu, thêm phái Vạn Hạnh công khai ủng hộ Lí Công Uẩn. Ở đây không cần đến một sự đe doạ tồn vong từ bên ngoài như với sự chuyển tiếp Đinh Lê. Lê qua Lí là kết quả chín muồi của tình thế có các con bài túc trực sẵn.


Nhưng chiếm quyền thì dễ mà giữ quyền thì khó hơn. Lí Công Uẩn phải lo cho sự an toàn của tập thể mình. Không thể nương thân mãi ở Hoa Lư xa lạ vốn còn nhiều thế lực đối địch khác. Phải về quê. “Chiếu dời đô” mở đầu cho một tình thế tràn lấn mới nhưng khởi đầu không phải là một toan tính “vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có...” Ý của vua đưa ra thì quần thần sao không cho là sáng suốt, vĩ đại? Tất nhiên chê chỗ cũ thì phải nói cho tàn mạt, khen chỗ mới thì phải bốc cho cao vút, nhưng mới lên ngôi đã về quê cũ cho tiền người đồng hương, đến đô mới cũng lo xây chùa thật nhiều ở chốn xưa, ý định khởi đầu khi muốn về Đại La cũ để gần gũi, dựa thế quê hương quen thuộc thật đã thấy rõ. Năm 218 ở lị sở cũ của quận Giao Chỉ có cá sấu nằm đầy vực, cả hai bên bờ nam bắc nên có tên Long Uyên, Long Biên. Nay Đại La bị bỏ bê trong ba phần tư thế kỉ lại thấy thuyền bè quân lính nhộn nhịp khiến các con cá sấu đã quen sự vắng lặng lâu ngày phải hoảng loạn bỏ chạy ra xa, trên sóng nước mênh mông, càng đi về phía chân trời càng như bay lên cao. Đó là khởi đầu của trung tâm cá sấu có tên Thăng Long hẳn sẽ làm phát triển những dạng hình phối hợp cá sấu - rồng trên hiện vật khảo cổ như minh chứng của sự hoà hợp giữa dân chúng và lãnh chúa, của một khía cạnh văn minh Việt Hoa trong toàn bộ sự phát triển Đại Việt vào thời Lí.


Lí Trần có điểm chung: đều là những tông tộc trị nước. Đây là dấu vết từ nơi phát tích, có thể bắt chước các tông tộc vùng Hoàng Hà khi họ chạy loạn đổ xuống nam Trường Giang lập các triều mới của thời Nam Bắc triều. Nhưng tiến trình thực hiện lại có khác vì các điều kiện thời đại, nơi chốn khác nhau. Lí tiếp quản trung tâm Đô hộ cũ tất phải giải quyết những vấn đề tồn đọng, vốn không vì năm tháng cách biệt mà coi như đã xong. Ở tận Hoa Lư thì không có vấn đề phải quan tâm nhiều đến các tập đoàn xa nơi trung châu phía bắc, nhưng vấn đề không thể bỏ lơ khi đã ngự trị ở Thăng Long. Và thế là có cuộc chiến tranh giành giật với vương triều Tống để giữ vững cương vực, phát triển vùng ảnh hưởng. Không có chứng dẫn nào cụ thể hơn cho sự co dãn bành trướng của Thăng Long bằng trường hợp nhân vật Tông Đản. Cũng một ông chúa Nùng đó mà khi dẫn quân bản bộ tiếp tay quân Lí đánh Tống thì được sử triều đình ghi chép để cho sử gia ngày nay coi như một anh hùng dân tộc. Còn khi trở cờ theo Tống thì sử ta lặng thinh để danh vị Tông Đản không suy suyển trên các bảng tên chỉ đường. Thật ra Tông Đản không xấu cũng không tốt, tập họp Nùng Tông Đản chao đảo chỉ vì nằm trên hướng bành trướng của Lí trong lúc Nùng Trí Cao lại có cao vọng hơn, là thoát ảnh hưởng của Tống, Việt để thành lập nước riêng. Đọc sử còn thấy các ông họ Hoàng thủ lãnh nhỏ bé nơi vạt biên giới chạy qua chạy lại nhờ cậy hay bị làm vật thí thân trao đổi. Trong các thế kỉ XVII, XVIII về sau, vùng biên giới phía bắc mất nhiều vào tay người Thanh chính là vì sự yếu thế của Lê Trung hưng không đủ sức vươn cánh tay quyền lực trên các tập đoàn thiểu số nơi này. Cuộc chiến Lí Tống ngày đó còn là chỉ dấu nhiều chất Trung Quốc trong triều đình Lí (xem tờ chiếu của Tống Thần Tông về việc chiêu dụ nhân vật gốc Mân của Lí) đến nỗi Lí cho mình có quyền can thiệp vào nội tình Tống (xem Lộ bố văn của Lí), và thấy đủ sức can thiệp vì có người phe Tống giúp sức. Chỉ sau khi phải đương cự sâu vào nội địa, Lí mới thấy khả năng hạn chế của mình và tự để cho mình địa phương hoá nhiều lên.

Ngay từ căn bản định cư, với tính cách chăm sóc trực tiếp ruộng đất, Lí đã phải ghép mình với địa phương không thể rời bỏ được. Việc chiếm quyền của những chủ nhân ông tuy từng xưng vương, đế nhưng vẫn chưa mất tính chất điền chủ, khiến phần sở hữu đất đai của Lí càng rộng thêm, sự ràng buộc càng chặt chẽ hơn. Lí trở thành Việt (bản xứ) giữa đám dân chúng phức tạp mà họ muốn lôi kéo theo con đường xây dựng cho dòng họ mình. Trong vòng triều đình, quan lại thân cận có thể nhắc đến Thang, Võ, Đường Thái Tông, Chu Công Đán để giải quyết chuyện tranh chấp, nhưng ngoài dân gian thì thể giá của ông Thiên tử mình vàng lại được ghép với sự thai sinh của con chó sắc trắng. Con chó, không được hiểu như con vật bị khinh miệt ngày nay mà như mang tính thời đại kính nể về con chó Bàn Hồ tổ của tộc Dao, một phần tử của tập họp người mà sử quan Hán gọi là Bách Việt trước khi có sự phân biệt chi li hơn với những tiếp cận về sau. Con chó được khắc trong mộ cổ Hán ở Giao Chỉ, thay vì con thỏ của truyền thuyết Trung Hoa về Hằng Nga, Hậu Nghệ (O. Janse). Trong khi tổ chức duy lí để xây dựng chính quyền của Lí toả rộng xuống dân chúng thì áp lực tin tưởng thần quyền lại từ ngoài len vào bên trong dòng họ, triều đình. Ta đã nói đến Thiên hạ minh chủ thần Đồng Cổ của hội thề bộ lạc trở thành người chứng giám cho sự trung thành với vương quyền. Sấm kí về sự thay thế Lí - Lê được cho là xuất hiện ở cây gạo bị sét đánh – cây gạo linh thiêng (Thần cây đa, ma cây gạo) cùng loại với cây gòn cột trụ lễ đâm trâu của một số dân tộc Tây Nguyên ở phía nam ngày nay. Chuyện các ông thần đá, thần nước, bà thần làm mưa... nằm trong quyển Sử kí, cái tên đã trở thành chính thống của bất cứ quyển sử nào của vương quyền nho, khiến cho vị trí thần/người lẫn lộn một cách nghiêm chỉnh, làm đà cho người sau đem vào sử chính thức.


Không phải ngẫu nhiên mà ta có chứng tích sinh hoạt nhiều về Nhân Tông, ông vua bé con thời chiến tranh 1075-1077. Các vua trước ông phần lớn lo đánh nhau, lấy nguồn lợi từ vàng bạc cướp đoạt, các ông vua sau trả lại ruộng, lo xây cất cung điện hưởng lạc. Chỉ có ông này là chăm sóc ruộng nương, lấy thu nhập từ đó nên tâm tính tằn tiện còn đeo đẳng cả trong di chiếu. Sinh hoạt bám ruộng của bậc đế vương nâng cấp tư tưởng phồn thực bản xứ trong cái mukhalinga mà dấu vết Hán là hình rồng trong tập họp “chùa” Giạm. Ở đó, chùa chỉ xây cất trong một năm, còn tháp tất là chứa linga kia, lại phải cầu kì xây tới gần 6 năm mới thành, chứng cớ ảnh hưởng mạnh của phương nam vì với Trung Hoa thì chùa lớn hơn tháp, nhưng với Ấn Độ thì tháp lớn hơn chùa. (Nhiều tác giả, Lịch sử văn hoá Trung Quốc, tập II, bản dịch, Nxb. Văn hoá thông tin, H. 1999, tr. 429.) Khảo cổ học trên các đền tháp (chùa Giạm, Ngô Xá...) chứng thực chứng cớ lịch sử có các công trình sư Chàm tham gia xây cất to lớn, khiến các tháp mang dáng vẻ như các tháp Chàm còn lại ngày nay, nhưng ngoài các vùng quản lí của vua Lí đó, hẳn là tập tục, sinh hoạt bản xứ, địa phương còn phồn tạp thể hiện với các hiện vật lưu lại ngày nay, mang tính cách thờ cúng (vũ khí, dụng cụ đồng, trống đồng...) có các con vật cá sấu - rồng, khác với những con rồng - rắn của cung đình.


Từ Thăng Long, Lí toả rộng quyền lực ra chung quanh theo một cung cách xử trí rất là “Việt Hoa”. Có những chức tước bắt đầu chi li theo tính danh Hán nhưng quan quân thì tự lo lấy lương, cho nên khi đánh Tống, rõ ràng với chính binh không nhiều mà “quân có sáu vạn, trong đó nhiều đàn bà, trẻ con... kéo hết cả nhà theo, chỉ để một vài người ốm yếu ở nhà.” (“Lí Thường Kiệt”, La Sơn Yên Hồ... đã dẫn, tập II, tr. 349.) Từ kinh nghiệm đối đầu với Tống, tiếp theo không có sự tràn lấn về phía bắc nữa mà chỉ còn những vùng đệm, gần thì kết nối bằng thông gia, xa thì lấy áp lực đe doạ trên những tập đoàn vùng biên để họ tuỳ theo tình thế mà khi thì theo Lí, khi thì theo Tống để giữ lấy thân phận mình, không mắc vào trường hợp quá đà đi đến diệt vong sớm như trường hợp Nùng Trí Cao.

Về phía nam, Lí rảnh tay hơn, nhưng với đầu đời thì Hoan, Diễn còn trại Định Phiên có trại chủ là quản giáp, còn phải đánh dẹp vì “hay phản phúc”. Các cuộc chiến Chiêm Thành mang tính cách lấn đoạt để cướp của, bắt người về rải ra trên đất mình làm phức tạp thêm nguồn nhân chủng có sẵn. Thế nhưng những cuộc tràn lấn của binh lực đó vẫn không đủ sức tạo thành một cơ thể thống nhất, chứng cớ là sự tan rã cuối đời cho thấy xuất hiện không những các khu vực có tính cách vùng phân li mà còn có tính cách khác biệt chủng tộc, từ trước được gọi là Man, Lão/Lạo, Lí, Lái. Đây cũng là hậu quả của thời thuộc địa khi các quan cai trị phương Bắc theo chế độ trực trị ở vùng đồng bằng, quanh các lị sở, tách các vùng cao làm đất “ki mi” (ràng buộc lỏng lẻo) khiến cho cách biệt càng lúc càng xa. Mà ngay ở đồng bằng, các thế lực địa phương cũng không phải là tan biến. Tổ tiên họ Trần chỉ mới tới ngay trong thời Lí mà di chuyển hai lần trơn tru, không thấy cản trở (vùng Quảng Ninh, rồi Nam Định ngày nay), rốt lại xây dựng đủ cơ sở để lật đổ chủ nhân ông vùng mình nương thân. Tộc đoàn Mạc trong thời Lí có lẽ kéo dài lãnh địa từ vùng biên giới bắc, đông bắc (“tiểu thủ lĩnh” Mạc Hiền, Mạc Thất Nhân 1124-1127), lan xuống hạ du sông Hồng có Mạc Hiển Tích đỗ trong một kì thi chỉ ghi tên một mình ông (1086), theo sử thì có vẻ như là người phục vụ trung thành, nhưng lại đủ khả năng gây rối nội cung mà không bị trừng phạt! Tiếp theo dưới đời Trần lại có trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi (liên kết theo thế yếu, nép mình làm gia thần Trần Ích Tắc), có một lô con cháu Mạc kéo nhau phục vụ Minh (Mạc Thuý 1406, 1412), có người đầu Lê Lợi bị tội mà chỉ đến đời vua tiếp theo, lại được tha rồi cho phục chức hẳn để lấy lòng tộc đoàn (Mạc Thôn 1434), từ đó họ vươn lên làm đến tước vương ngay đời Thánh Tông (bia 1470 của Mạc Ngọc Ỷ, con gái Trung Thành Vương, xã Cổ Trai). Và cuối cùng Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, trả thù cho các ông tổ xa đời. Trường hợp Mạc Hiển Tích lại có thể dùng để liên hệ với Lê Văn Thịnh, người được ca tụng là “Trạng nguyên khai khoa đầu tiên của Đại Việt”, nhưng cũng là người thấy dẫn ra độc nhất trong một kì thi, cho ta thấy các kì thi đó thật ra chỉ là một cách hợp thức hoá quyền chức đại biểu của một tông tộc có uy thế, và việc Lê Văn Thịnh bị ghép vào âm mưu giết vua trên hồ Tây (1096) mà được tha, không hẳn là vì đạo Phật làm mềm yếu ông vua Lí như sử quan trách cứ (hay đã ảnh hưởng đến tinh thần bao dung của Nhân Tông như ông Hoàng Xuân Hãn ca tụng). Liên hệ với trường hợp Mạc Hiển Tích, ta thấy chuyện ông này bị vua đày sau khi bà Thái hậu mất chỉ có nghĩa là được trả về quê cũ mà thôi.


Trần dựa trên căn bản của Lí, không cần phải đặt để cho dân chúng một hệ thống tông tộc mà chỉ củng cố vững chắc hơn, nên tuy di cư sang đất Việt có vẻ lâu hơn Lí (còn qua trung gian An Quảng) mà lại cố tình giữ tính chất Hoa nhiều hơn – có vẻ cũng vì sự kiêu ngạo tông tộc ở mức độ cao hơn đã ghìm giữ họ. Trần Thái Tông qua đất châu Khâm, châu Ung xưng là Trai Lang, danh hiệu của con Tống Thái Tổ, khiến dân chúng ở đấy bị gạt (1241). Đó không phải là kết quả của sự giả dạng tài tình mà chính là bản thân đã giống như vậy. Trần Nhật Duật tiếp sứ Nguyên đã bị hỏi: “Ông người Chân Định (quê của Triệu Đà) phải không?” Đây là lời lẽ lịch sự “ngoại giao” của câu hỏi trắng trợn: “Ông có phải là... người Cắc-chú không?” Mức độ gần gũi khiến có quân Tống trong hàng ngũ Trần, và Nhân Tông từng dặn dò cận thần phải phân biệt quân Thát (Tống) của Nhật Duật và quân Mông Thát của Nguyên, còn Trần Ích Tắc thì dèm ông em mang giặc về. Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn với Sài Xuân, Trần (Đỗ) Khắc Chung đối đáp với Ô Mã Nhi, Nhân Tông gặp sứ thần Trương Lập Đạo, có vẻ như trực tiếp, không qua trung gian thông dịch. Họ cần thông dịch vì giữ thể thống, vì ranh ma ngoại giao chứ không phải không hiểu tiếng nói (chuyện đời Anh Tông 1330, về Trần Nhật Duật). Nhưng họ đã Việt hoá – địa phương hoá, nhanh hơn chính bản thân muốn, vì cuộc chiến với quân Nguyên. Có thể nhắc lại những lời bình luận sử tha thiết mà không giấu được nỗi lo sợ của Lê Văn Hưu để nhận ra tinh thần dân tộc (tiềm ẩn trong quan niệm phục vụ vương quyền) dâng cao như thế nào trong sự đối kháng với sự đe doạ mất quyền bính từ quân Nguyên. Và tất nhiên các trận thắng Nguyên cũng không khiến ta cho rằng Trần đã có quyền xuyên suốt các địa phương trong bản đồ ta vẽ ngày nay. Nòng cốt sức mạnh của Trần nằm trong hệ thống tông tộc như đã thấy trong lời mắng mỏ tướng sĩ ở bài Hịch. Nhưng phải nhắc lại hội nghị Diên Hồng để thấy tính chất phân tán một chừng mực ở ngay vùng trung châu mà Trần cần kêu gọi đến sự phù trợ trong chiến tranh. Vùng Thái Bình ngày nay (gần nơi căn bản của Trần) vẫn có tên là phủ Trấn Man. Nhắc lại các trận “du kích” trên đường tiến quân hay rút chạy của quân Nguyên để thấy các thủ lãnh trên vùng biên vẫn ở thế xoay chiều theo thời thế như thời Lí Tống. Và cũng có thể nhắc lại Lê Tắc để có chứng cớ đương thời, về các “hương ấp quan thế tập...” Khi xét công, tội trong trận chiến vừa qua (tháng 4âl. 1289), Nhân Tông đã định tội đồ đối với quân, dân hai hương Ba Điểm và Bàng Hà, điều đó chứng tỏ có sự tự quản lĩnh của những hương tương tự như thế trên đất Trần.

Nhưng khi Nguyên không chiếm được đất Trần thì các trận chiến tàn hại cũng là nguyên nhân khiến Trần suy sụp – chứng tỏ nơi lời than khóc của Trần Nhân Tông với Trương Lập Đạo (1291). Trận chiến cũng tàn hại như với Chiêm Thành. Điều đó khiến Trần không đủ sức lấn chiếm, cho đến thế kỉ sau. Trần chỉ còn phải lo việc trong khu vực quyền bính của mình.


Gần bốn thế kỉ kẻ lưu vong cầm quyền thay thế các lãnh tụ gốc bản xứ thất bại, trên một vùng đất riêng biệt, điều đó khiến cho cựu thuộc địa phương Nam của Trung Quốc trở thành một nước độc lập có sơ sở vững chắc, khó có thể đảo ngược được. Kinh đô có tên là Thăng Long được lưu truyền trong ngôn từ văn học, cao cấp tuy sau đó ở chốn triều đình thì đã mất danh hiệu từ lâu. Và lại cũng như ở các tiến trình khác, sự đổi thay, phân hoá không đến từ bên ngoài thì lại xảy ra ở bên trong. Đến nửa sau thế kỉ XIV thì không thể có một người Hoa di cư nào có thể nhảy lên làm vua nước Đại Việt cả vì sự khác biệt đã rõ ràng, tuy tính chất đồng văn qua bao nhiêu thế kỉ cùng tổ chức xã hội khiến cho không xảy ra sự kì thị gay gắt. (Làm quan thì được, dễ là khác, nhưng làm vua thì không!) Họ Hồ với sự liên hệ xa đời – quá xa! là rơi rớt của tình trạng xưa cũ để làm cho các lãnh tụ địa phương phía nam đất nước trở lại nắm quyền hành, có vẻ như không chịu để sẩy mất như thời Hoa Lư nữa. Hồ có tổ là người Hoa thời Ngũ Đại, lúc này thuộc về một trong những tập đoàn địa phương Thanh Nghệ, đủ sức thấy mình là người Việt để, như đã nói, lấy tên nước là Đại Ngu mà không sợ mất đất vào tay con cháu Ngu Thuấn và còn ước mong “có trăm vạn quân” để đánh Minh. Nhưng vì tính chất địa phương mà việc Hồ nổi lên cũng làm trung tâm Thăng Long xuống cấp khi họ xây dựng Tây Đô, chia sớt tính cách chính danh cũng như quyền lực với vùng nay chỉ còn là Đông Đô, mất tính cách duy nhất trước kia.


Sự dời đổi trung tâm chính trị cũng làm nổi bật lên trong lịch sử các thành phần dân chúng khác ở phía nam, đi vào tập họp dân Lí Trần phía bắc. Cứ dựa vào kiến thức của các sử quan xưa thì không thể biết rằng những người này vốn thuộc vào các tập đoàn nào có tên rành rẽ ngày nay (Mường, Thổ, Khạ, Bru...) mà con cháu còn ở lại trong vùng. Dưới mắt sử quan thì không có đám dân chúng tầm thường khuất lấp, họ chỉ nhắc tới những người nổi bật, có liên hệ với chính quyền Đông, Tây Đô mà họ gọi là “thổ quan”. Chỉ nên kể ra một người: Đặng Tất. Ông này có con làm bài thơ cảm khái “Sự khứ anh hùng ẩm hận đa” hơi bi đát nhưng cũng có dáng thời thế của Văn Thiên Tường; có ông cháu năm đời (Đặng Minh Khiêm) làm Phó tổng tài sử quán, tuân lệnh Lê Tương Dực vịnh sử nhân vật nước Nam nguyên cả tập. Thấy cứ giống như là các thi bá của Đường: Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị, một người từ họ Thác Bạt tộc Tiên Ti, một người từ tộc Quy Tư của Tây Hồ! (Lịch sử văn hoá Trung Quốc đã dẫn, tập I, tr. 226.) Lại có ông thổ quan Phan Liêu rủi ro khơi động tranh luận thời bây giờ, không giấu được tính chất “thổ” của mình khi có bằng chứng ông anh họ Phan Kiệt làm đại tri châu của một vùng “man” rõ rệt (Trấn Man). “Thổ hào” Phan Mãnh chỉ huy quân Thánh dực ở Tân Bình và Thuận Hoá tưởng có đủ thế để chen vào chính tình Trần Hồ, rốt lại bị giết (1391). Việc các ông “thổ quan” làm trưởng sở trên những vùng đất vẫn được coi là Việt từ lâu đời chứng tỏ “người Kinh” (theo cách hiểu ngày nay, “dân Trời”, theo Lê Thánh Tông) không có tư thế quan trọng như ta vẫn thường nghĩ. Thế mà con cháu ông Phan Liêu ngày nay cứ tưởng tổ tiên mình là “người Kinh” có liên hệ với đất ngàn năm văn vật Thăng Long! Họ không đọc Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn để thấy rằng ở thế kỉ XVIII, các ông trưởng buôn người Sách Quảng Bình cũng được có họ Phan/phiên, giống như họ Đinh thuộc tập đoàn H’ré ở Sơn Hà Quảng Ngãi, Bình Định được nằm trong sổ đinh, một số người Miên được quan gọi “danh X...” (tên X...).

Như đã nói, chúng ta không thể biết Phan Liêu thuộc vào tập đoàn thiểu số nào của ngày nay, nhưng các Phan Ma Lôi của Nguyễn Nộn (1229), Phan Ất (Đồng Lợi) của Trần Cảo (1516) thì được chỉ rõ là người Chàm. Tập thể tù binh Chàm bị bắt ở thế kỉ XI, đem an trí giữa người Việt, đến thế kỉ XIII còn được Trần Nhật Duật đến thăm viếng, sử thần Lê Văn Hưu mỉa mai khinh miệt, và đến cuối thế kỉ XX, qua cơn kiêu hãnh dân tộc độc tôn, các học giả Việt cũng nhận ra gốc gác ở nhóm đồng bào có cách phát âm Việt khác lạ, có những sinh hoạt giữa cảnh quan địa lí chỉ có thể tìm sự tương đồng xa tận phía nam. (Trần Quốc Vượng, Theo dòng lịch sử, H. 1996, tr. 96, 97, 206, 210, 211.) Viết “phan” là theo cách dịch tên đã thành trong sử phẩm nhưng ta thấy rõ gốc của nó là một từ phiếm định, “phiên” mượn của Trung Hoa chỉ các dân tộc phía tây, ở đây là người Chàm. Không biết từ lúc nào “phiên Ma Lôi”, “phiên Ất” đã mang họ Phan thực thụ cũng như không biết lúc nào các “đinh Ngô”, “danh Bên” đã thành Đinh Ngô, Danh Bên.


Nhưng nổi bật nhất là nhóm tù trưởng Lam Sơn rồi sẽ kéo theo các tập đoàn Mường Thái, lấy đất Thanh Nghệ làm “ấp thang mộc”, ngự trị trên đỉnh cao nước Việt đến thời gian gần đây. Danh xưng phủ Đô hộ của quá khứ thuộc trị nấp dưới tên Đại Việt của các triều đại Việt Hoa Lí Trần sẽ biến mất hẳn dưới quyền các tập đoàn lãnh đạo bản xứ mới.


TRUNG TÂM MƯỜNG, TÀY-THÁI THANH NGHỆ – ĐƯỜNG PHÂN RẼ QUA ĐÔNG KINH VÀ PHÚ XUÂN


Theo chỗ chúng tôi biết, không có sách sử chính thức nào nói Lê Lợi là người Mường cả (dù Văn thề Lũng Nhai có ghi “phụ đạo lộ Khả Lam”), nhưng theo tinh thần thông cảm Việt thì có vẻ người ta cũng không phủ nhận điều đó. Ông Đào Duy Anh có nói đến giới tuyến đại khái tây đông ở vùng Thanh Nghệ giữa người Mường - Tày và người Mường -Việt, nhưng đó là chuyện “thời Hùng Vương”! (Đất nước.., tr. 30.) Chỉ vì người Mường đối với người “Kinh” đã trở thành “mường mán” cho nên không thể để ông vua cứu nước, lập triều đại lâu dài của Đại Việt, thêm ông Thánh Tông uy vũ từng đưa quốc gia dân tộc đến đỉnh cao văn minh, lại xuất thân từ thành phần dân tộc thấp kém. “Đồ Mường Hà Nội!”, ông Hoàng Văn Chí đã nghe một ông chủ nhà mắng anh sinh viên tản cư như thế. Nhưng dù sao thì nguồn gốc của chúa Lam Sơn cũng đã rõ rệt, không có gì để thấy phải mặc cảm. Từ nửa sau thế kỉ XII – nửa đầu thế kỉ XIV đã thấy những xung đột của Lí, Trần với các tập đoàn phía tây (ở các mường), trong đó việc chống đánh “man” Ngưu Hống vùng sông Đà có dấu vết của Ai Lao đồng tộc giúp Ngưu Hống mà binh lính của họ có khi lấn qua đất đồng bằng Nghệ An (1335). Và hình như sự kiện tràn lấn này, phản ảnh sự kiện xuống biển, xuống đồng xưa kia, đã lưu lại trong truyền thuyết về việc An Dương Vương rẽ nước biển biến đi khiến có một đền thờ của ông ở vùng này. Chữ “mường” để chỉ một lãnh địa dễ dẫn đến ý nghĩ đó là lãnh vực của người Mường, nhưng cũng nên chú ý rằng nhà Nguyễn gọi Luang Prabang là Mang Long / Mường Luông, còn trong ngôn ngữ thông thường ngày nay, thì Vạn Tượng là Mường Viêng, và các vùng người Thái Miền Bắc vẫn có chỉ danh “Mường”, chưa kể chính đất Thái là Muang Thai. Và với họ Trịnh sẽ bàn về sau, chúng ta gặp một thủ lĩnh người “Man” là Trịnh Giác Mật hàng Trần Nhật Duật (1280). Dòng người Thái kéo theo những tập đoàn gần cận, khi tràn xuống phía nam, lan qua đông có gây sự khích động tự vệ nào của các nhóm Mường, hay có sự pha trộn nào để tăng sức mạnh tập họp của các nhóm này, làm hạt nhân khởi đầu cho cơ nghiệp nhà Lê sau này không? Điều đó có vẻ được chứng minh với việc xuất hiện của các họ Trịnh như sẽ thấy.

Gốc Mường của Lê Lợi có thể thấy gián tiếp từ những người phụ tá ông trong vùng, lúc đầu khởi nghĩa: các họ Đinh, Nguyễn, Lê (sự xung đột bên trong đầu đời Lê có dáng như giữa các bộ tộc chứ không phải thân tộc), và mối liên hệ liên minh, cầu viện với các tập đoàn phía tây (Lào), dây dưa đến những tranh chấp gây chiến rất nhiều, sau khi Lê lên cầm quyền Đại Việt. Thỉnh thoảng thấy các nhân vật của Lê mang tên không có vẻ “Việt” tí nào: Lê Đa Bồ trong những người đánh vào Thuận Hoá (1425); cha của Lê (Đinh) Triện (chết trận 1427) tên là Lê (Đinh) Ba Lao. Họ Lê của người khởi nghiệp có nguồn gốc như phát sinh từ cách nhìn-xuống của các tập đoàn trung châu chịu ảnh hưởng Trung Hoa để gọi các tập đoàn bên lề rừng núi là Lí, Lái, Lão/Lạo, Liêu, Lê (như tập họp bản xứ ở đảo Hải Nam) – “lê dân”. Nhìn những người họ Lê chung quanh Lê Lợi (ví dụ như với Lê Lai, tù trưởng phụ đạo một lần “liều mình cứu chúa” – cũng phụ đạo!, bị Lê Lợi giết 1427, rồi lại được “phục hồi sinh mệnh chính trị” sau khi thành công) thì rõ ràng Lê trong sơ khởi có dáng là một họ phiếm chỉ cho nhiều nhóm chứ không phải riêng biệt của tộc đoàn thân gia. Lại cũng có thể thấy cách sinh hoạt du canh du cư của ông tổ họ Lê được biện minh bằng phong thuỷ, thiên mệnh trong mở đầu của Lam Sơn thực lục. Ông vua mở nước đã xưng là Lam Sơn động chủ để con cháu vẫn tiếp tục xưng như thế, kể cả ông vua văn minh Thánh Tông, vì thấy quyền lực đã lớn rộng nên xưng Thiên Nam động chủ. Con Lê Lợi làm vua mà kì kèo không chịu học (Nho), chỉ thích cầm cung bắn chim, coi đất kinh thành như giữa rừng núi xưa. Thời ông vua cháu, còn thấy chăng lưới săn chứng tỏ các Đại tư đồ, Thái uý... còn ham săn bắn hàng ngày. Gần một trăm năm sau khi dòng họ làm vua mà một ông hoàng đế còn mặc khố trong cung: Trong quan tài của Lê Tương Dực (+1516) phát hiện gần đây, người ta thấy có cả cái khố mang theo khi chết. Không thể nghĩ rằng các ông vua Trần ở Thăng Long còn mặc khố. Được sự phụ hoạ của người dưới muốn che lấp hổ thẹn cho người trên, tất cả dấu vết Mường của họ Lê tưởng như biến mất hẳn, không ngờ lại cương quyết bám chặt vào thân xác các con rùa ở hồ Hoàn Kiếm với DNA giống như loại rùa ở Thanh Hoá, Hoà Bình ngày nay!


Dù qua sự che đậy, bào chữa với văn từ hào nhoáng của các sử quan Đông Kinh, ta vẫn thấy dấu vết thượng du của Lê trong tổ chức cai trị, cách thế ứng phó với các tập đoàn khác khi nắm quyền chủ nước. Đã nói nhiều ở nơi khác về sự chèn ép của Lê đối với Trần, riêng ở đây tưởng nên lưu ý đến một chức danh khuất lấp: chức thủ lĩnh của những người cầm đầu các tập đoàn địa phương, cần thiết hiện diện, kèn cựa với chức quyền nho trên đất Đông Kinh.

Chi tiết về quyền lực rõ rệt của những người này và sự biến dạng của nó được tiếp tục nêu ra rất muộn, nhưng có lẽ vì quan hệ đến sự tồn vong của dòng họ từ một cơ cấu cầm quyền có thể gọi là song hành ngay từ lúc khởi đầu, nay đến lúc sa đoạ ở dòng chính khiến cho người ta phải lưu tâm chấn chỉnh, và do đó chúng ta thấy được tầm quan trọng của nó. Đó là tờ chiếu của Lê Hiến Tông khi mới lên ngôi (1498) về việc “chọn chức thủ lĩnh”, chức “được ngang hàng với các trưởng quan, được bàn luận phải trái cùng trưởng quan, không phải chỉ có tra xét sổ sách viết lách các phủ vệ mà còn phải xét hặc các tướng hiệu gian phi”. Nghĩa là một chức được tuyển lựa theo cách nào đó không qua hệ thống chính thức bề ngoài của triều đình (trưởng quan) mà có quyền hình như lấn át cả trưởng quan, trông coi về mặt cả văn lẫn võ. Chức vụ này thấy rõ trong đợt cải cách quan chế to lớn năm 1471, có dấu hiệu là đã xuất hiện từ trước: “Việc xét duyệt sổ sách quân nhu hàng đống, hay phân biệt chọn lựa tướng suý, thiên tì trong các quân của thủ phủ thì các quan kinh lịch, thủ lĩnh đều được phép tra xét, đàn hặc cả...” Hoàng triều quan chế 1471 đó thay đổi lối cũ rất to lớn đến nỗi Lê Thánh Tông phải lo răn đe phản ứng: “Kẻ nào dám dẫn bừa quy chế cũ mà bàn cãi một quan nào, thay đổi một chức nào, chính là kẻ bề tôi phản nghịch, làm loạn phép nước, phải xử tử vứt xác ra chợ không thương xót, còn gia thuộc nó phải đày đi nơi xa...” Sự tranh chấp mới, cũ gây nên những phản ứng gay gắt và bước lùi nhượng bộ. Giết sủng thần Trần Phong 1485, người núp bóng thể chế cũ, chê Thánh Tông theo Minh, là cụ thể hoá lời đe doạ trên. Còn quy định tháng 9âl. 1478 buộc thủ lĩnh các nha môn phải kí tên cuối tờ giấy trình, không được để ngang hàng với trưởng quan, là vớt vát thể diện cho chức quyền trung châu. Các việc tuyển bổ, thăng chức, chỉ định vị trí thủ lĩnh được tiếp tục nhắc đến trong các lệnh 1480, 1483, 1496 của Thánh Tông, và năm 1497 của Hiến Tông khi mới lên ngôi chưa đổi niên hiệu.


Về danh xưng chức vụ với ý nghĩa tương tự, ta thấy trong tờ biểu gởi vua Minh xin tấn phong (1430) có lời tôn Lê Lợi là “đại đầu mục” nước Nam, còn trong thời thuộc Minh thì có các chỉ huy như “Thổ chỉ huy” Nguyễn Sao, “Chỉ huy” Lộ Văn Luật (1419), giống như là chỉ những lãnh tụ địa phương đương thời, những “đầu mục” nhỏ. Có thể nhắc lại thêm các “tiểu thủ lĩnh”, “thủû lĩnh” Mạc Hiền, Dương Tự Nguyên... đời Lí. Các “thủ lĩnh” trong ngạch quan chức của Lê có vẻ là những đầu mục, chỉ huy đó. Lệnh chỉ của Lê Thái Tông khi mới lên ngôi (1434) cho thấy thêm tính chất gốc “thổ” của các thủ lĩnh: “Các quan từ lục phẩm trở lên coi việc quân dân, và các phụ đạo, thủ lĩnh ở các phiên trấn mà có con đích, cháu đích cùng một hộ tịch hay khác hộ tịch đều được miễn thuế và sai dịch.” Có lẽ vì khả năng văn học thấp kém của những người vốn ở các vùng cao này, nên họ thường bị coi rẻ để có lệnh tháng 3, 1484: “Cấm các nha môn phủ, vệ, ti ỷ thế mà chửi mắng viên thủ lĩnh.” Sự khinh thường xảy ra lại cũng có thể vì quyền hành lớn được trao lâu ngày khiến tầng lớp thủ lĩnh trở nên sa đoạ “... dung túng che giấu cho nhau... hùa nhau làm trò nhơ nhớp, mặt dày nịnh bợ... gây mối tệ hại không sao kể xiết...” như lệnh 1498 đã nhắc và nêu biện pháp sửa đổi. Chức danh “thủ lĩnh” vẫn còn thấy nhắc đến trong cải cách năm 1528: “Mỗi vệ đặt một viên thư kí, dùng hạng kí lục xuất thân khi trước, (giống) như là (cách) bổ các chức thủ lĩnh chăn dân...” Mạc Đăng Dung lúc đầu sợ rối loạn, vẫn theo quy chế của Lê Thánh Tông, đến năm này mới đề ra cải cách mang tính chất tập trung quyền lực cho dòng họ mình hơn, cho nên không lấy làm lạ là chức danh thủ lĩnh vẫn còn, tuy thấp hơn trong chính quyền cũ vì chỉ được nhắc thoáng qua, đến mức giống như chỉ là nói theo thói quen mà thôi.


Vậy thì trong tổ chức cai trị trên đất Trần cũ, Lê đã dùng các tướng Lam Sơn trấn giữ các vùng Bắc đạo, Nam đạo... ở diện địa lớn, lại còn đặt thêm cả một hệ thống hành chính quân sự thứ hai chen vào các đơn vị nhỏ: phủ vệ ti, để bảo vệ cho triều đại gốc gác từ xa. Trong mục đích đó, hẳn Lam Sơn không đủ người để phân phối khắp nơi. Vậy thì với tính chất “vùng cao”, người ta có thể lấy thêm từ các phụ đạo quanh đồng bằng, không cứ là người Mường, Thái... Sự cai trị như thế có gây khó chịu, thêm xung đột nhưng chắc không gặp trắc trở nhiều vì đã có tiền lệ ở phía nam như đã nói, với Đặng Tất, Phan Mãn, Phan Liêu, cũng như vào thời Trung hưng qua sự liên kết của Trịnh với các tập họp Tày Nùng ở biên giới phía Bắc. Lối cai trị hai tầng như thế của tập đoàn Lam Sơn chỉ được nhận ra thời bây giờ, gần đây, về đợt “Đông tiến” lần thứ hai, thời Trung hưng, với sự hiện diện của quân Tam phủ, nhờ chứng cớ của người ngoại quốc đương thời (A. de Rhodes) và các nhà nho ít ràng buộc qua biến loạn nên mạnh dạn ghi chép hơn (Hoàng Lê nhất thống chí). Không giống hẳn Mông Cổ, Mãn Thanh cai trị vùng Hoa Hạ nhưng rõ ràng tập đoàn Lê cai trị đất trung châu vẫn giữ sự cách biệt, đề phòng. Và do đó ta hiểu tại sao Lê Lợi bị sử quan chê “đa nghi, hiếu sát”, chỉ vì ông phải củng cố vị trí dòng họ mình để đứng chân được trên đất của tông tộc Trần, cùng lúc với việc điều chỉnh quyền hành đối với các liên minh sau khi thành công. Sự kiện Ngô Sĩ Liên đưa các ông Hùng Vương bên lề đồng bằng vào chính sử nước Việt đã thể hiện một sự hoà hợp tự nguyện của văn thần trung châu dưới áp lực của quyền bính Lê Mường. Và bất ngờ, dân Việt từ đó tìm được một ông Quốc tổ có ảnh hưởng sâu đậm đến ngày nay.


Tập đoàn Lam Sơn ở vùng trung châu yếu đi khi thiếu người cầm đầu xuất sắc để thế lực Đông Kinh vùng dậy. Lúc đầu chỉ là việc của những ông vua đời sau, thấy đã xa khung cảnh của “động” Lam Sơn mà gắn bó với phe ngoại của phố phường Đông Kinh để giành thắng lợi giữa cái thế tranh chấp từ trong cung đình. Nhưng cũng từ đó thế lực Lam Sơn ở Đông Kinh càng mỏng hơn. Uy Mục Đế (mẹ gốc Đông Kinh) đuổi giết tôn thất chạy về Thanh Hoá trong đó có dòng họ Nguyễn Gia Miêu sau này, nhưng Tương Dực thay thế lại cũng lấy hai người vợ thuộc tông tộc Trần cũ. Họ Mạc lên cầm quyền chỉ là hồi kết trong sự tàn tạ của thế lực Lê ở Đông Kinh. Và muốn phục hồi, “trung hưng” thì Lê phải dựa vào nơi phát tích, lúc này không phải chỉ một khúm rừng núi Lam Sơn như xưa kia nữa mà đã có một vùng Thanh Nghệ được xưng tụng thang mộc ấp cả hơn trăm năm với di chứng từ thời Kinh/Trại Hoan Ái xưa, tách biệt đối với vùng ngoài. Sự đối kháng Đông, Tây Kinh không phải chỉ là vấn đề danh từ. Nhà Mạc với cơ sở từ đời Lí như đã nói, khi chiếm quyền cũng ý thức được điều đó nên gọi vùng Trịnh Lê là Tây Việt, cho vùng mình là Đông Việt, và cả quần thần, khi xưng tụng một tướng tài cùng phe đã tán dương rằng “cả vùng Giang Đông không ai bằng”. Một “vùng Giang Đông” ấy là cả cơ sở cho nhà Mạc, tuy còn vươn tạm lên đất Đông Kinh, nhưng đã giúp cho họ giữ gìn được cơ nghiệp chao đảo khi có tướng bất mãn đã đầu người khác lại quay về phục vụ. Họ thua bỏ Đông Kinh nhưng còn tràn đầy sinh lực vùng biển khiến khi có biến cố thì Trịnh lại phải rút về Thanh Hoá, chứng tỏ rành rẽ hai khu vực quyền lực tranh chấp. Sự trung thành với triều Mạc kết tinh trong chuyện ông quan văn ung dung cản đầu ngựa của chúa Trịnh để vua mình chạy thoát, được thuật trong Lĩnh Nam chích quái nối dài. Phan Huy Chú viết sách đầu thế kỉ XIX cũng dùng chữ Đông Kinh cho đô của Trịnh Lê, chứng tỏ sự chính danh của thời đại từ 1430. Sự tiếp nối về sau vẫn được giữ khiến Đông Kinh trở thành Tonkin của người phương Tây và thành một xứ bảo hộ của nước Pháp cuối thế kỉ XIX.


Nhưng ngay cả đến lúc Lê quật khởi, sự chống đối với Đông Kinh cũng phải cần đến nòng cốt là những tập đoàn vùng cao Thanh Nghệ. Sử sách dùng từ “trung hưng” để chỉ giai đoạn tái chiếm quyền hành này, nhưng ta cũng có thể thấy bản thân họ Lê từ đây là thuộc một chi nhánh Mường mới, không phải như lớp người đã Đông Kinh hoá khi thất thế. Sử ghi người được Nguyễn Kim phù trợ là Lê Ninh (1515-1548), con của Chiêu Tông (+1526) nhưng hình tích ông hoàng này rất mù mờ đến nỗi các người đi sứ cầu phong cũng không làm cho quan nhà Minh thoả mãn khi hạch hỏi. Xét tuổi của Chiêu Tông khi sinh (1506) thì không thể có con lúc mới lên chín (1415) được. Danh hiệu Chúa Chổm mà người sau gán cho “ông hoàng” này, trở thành thời danh nói về người nghèo khổ nợ nần lút đầu, chứng tỏ ông chỉ có hơi hám với Lê cũ, hay chỉ là người cần thiết để lấy danh hiệu mà thôi. Khi dòng ông bị tuyệt (hay vì đã tìm được người thích hợp hơn?) thì người ta lại lấy cháu 4 đời của Lê Trừ, anh Lê Lợi, điều đó lại càng chứng tỏ thêm lớp người còn lại ở đất Lam Sơn gốc gác Trung hưng, cũng không hơn gì ông Chúa Chổm kia. Gốc gác như thế khiến ta không lấy làm lạ với chuyện em ruột ông vua (Lê Duy Hàn) đi ăn trộm, giết người (1569). Lê Trung hưng phải nhờ đến các thế lực thiểu số khác. Người thứ hai được kể với Nguyễn Kim vào thời kì khởi xướng (1533), có tên mù mờ là Đinh Công. “Công” có dáng chỉ là một cách gọi tôn trọng thay cho chữ “ông”, nghĩa là đã mất tên, hay tên khó diễn âm cho sử quan ghi nhớ. Chỉ có TT cho biết ông là hoạn quan như Đinh Thắng xưa kia, nhưng Cương mục khi ghi rõ quê quán lại không có chi tiết ấy cho nên ta ngờ rằng đó cũng là một Đinh Lễ, Đinh Liệt... lành lặn, cùng họ Đinh như các tù trưởng Mường thời gần đây. Các thái giám của Lê Lợi có các chức tước quân sự trong ngoài, không phải là hoạn quan mà chỉ là những đầy tớ xưa, đủ tin cậy để cai trị người châu thổ Trần, nên Đinh Công này có lẽ cũng là một dạng như thế. Ông vua ăn nhờ ở đậu có kẻ hầu người hạ là đủ, còn nói chuyện cung đình hậu phi với người thiến chăm sóc thì quá sớm! Vai trò giúp Lê của ông họ Đinh này còn rất lớn sau khi Nguyễn Kim đã chết đi.


Lại cũng như trường hợp với Lê, không có sử sách nào nói họ Nguyễn có gốc Mường cả, nhưng chúng ta cũng nên lưu ý rằng Nguyễn Thận, đồng thời với Lê Lợi, chủ vùng Mục Sơn, được gọi là Đạo Mục cũng như ông chủ Lam Sơn ở gần đó, được gọi là Đạo Cham (Lam). Tuy nhiên với ông Nguyễn Kim thì mối liên hệ với Lê hẳn đã khiến họ này Đông Kinh hoá nhiều. Nguyễn Kim lúc chết được chôn ở nơi gọi là Bái Trang, như tên đất Bái của người khởi nghiệp nhà Hán. Quê hương Nguyễn đến lúc đã sang cả thì có chữ “gia miêu” (lúa má tươi tốt) với ý nghĩa dòng dõi (vua chúa) nhưng tập họp tên “ngoại trang” còn cho thấy dấu vết xa lạ không những với vùng đồng bằng, mà với cả chính vùng “trang”. Ngược về trước, nghĩa là gần cội nguồn phát xuất triều đại, ta thấy họ Nguyễn vùng đó đã kết thông gia với họ Lê hoàng đế: Nguyễn Đức Trung, cha vợ Lê Thánh Tông, xuất hiện nhiều trong TT với quyền thế nên nhiều người theo nịnh bợ (Trần Phong) khiến ông vua phải dùng chữ “liếm trôn trĩ (của Trung),” Con Trung là Nguyễn Văn Lang (+1513) phò Tương Dực Đế, con Lang là Nguyễn Hoằng Dụ được TT ghi: “Có thuyết nói là” cha Nguyễn Kim. Lời lẽ hoài nghi qua thời gian trở thành xác quyết ở Lê Quý Đôn một thế kỉ sau (Phủ biên tạp lục). Có lẽ vì vậy mà Dương Công Tòng, Tham hiệp trấn Sơn Tây đầu đời Gia Long, người viết Tựa Việt Nam khai quốc chí truyện đã ghép dòng vua Nguyễn với Nguyễn Đức Trung khởi đầu (La Sơn Yên Hồ.., II, tr. 674). Tuy nhiên, Thế phả chính thức của Hội đồng Nguyễn Phúc tộc tuy kéo xa lên đến ông Nguyễn Bặc đời Đinh (?!) lại nói rõ Nguyễn Kim là con đầu của Trừng Quốc công Nguyễn Văn Lựu. (Chỉ dẫn của Trần Gia Phụng, Những câu chuyện Việt sử 2, Toronto 1999, tr. 135.) Chức tước cao nhưng nhân vật rõ ràng không tham dự nhiều vào chính tình Đông Kinh, nghĩa là Nguyễn Kim tuy cũng là gốc Gia Miêu như Nguyễn Đức Trung mà còn gần gốc tổ hơn. Có lẽ đó là một quan tước hồi cố khi dòng họ đã sang cả, theo kiểu thường thấy ở các vương triều xưa, trong trường hợp này thì “quốc công” là cao nhất, bởi vì con cháu lúc đầu cũng chỉ mới ở tước “quận công”. Sử quan Nguyễn viết về thời chủ họ còn là chúa, khi nhắc đến công tích của các tướng lĩnh, thường chỉ nêu tên mà ghi “khuyết tính”. Rõ ràng không phải là “thiếu họ” mà “không có họ”, những người đó tuy có lúc vẫn được trân trọng xếp vào hàng cùng quê hương của chúa, “Quý hương, Quý huyện”, nhưng bản thân họ chắc là thấp kém nên không mang chứng tích tông phả theo kiểu Hán Việt. Vùng gốc của Nguyễn Kim là của người Mường (Mường Cheo / Triệu Tường – Hoàng Văn Chí, Duy văn sử quan, Tủ sách Cành nam, 1990, tr. 104.) Nguyễn Hoàng khi đi trấn nhậm và con cháu tiếp tục, đã dời đổi dinh trú đóng, như dấu vết rơi rớt của thời du cư tổ tiên xưa họ từng làm. Chúng ta không cần phải theo “triết thuyết” của ông Hoàng có tham vọng dạy sao cho thế giới chống Cộng thành công, nhưng nên chú ý đến các ghi nhận địa danh, sinh hoạt địa phương vốn rất hiếm trong sách vở lịch sử của người Việt. Ông cho biết Lam Sơn là Mường Cham, và cũng lưu ý rằng vùng của người Tày được gọi là Chiêng (bến đò Chiêng trên sông Mã qua làng Trịnh Kiểm, làng Chiêng của mẹ Trịnh Kiểm...) để đề nghị rằng họ “Trịnh” có thể là từ “chiêng” chuyển qua. Chúng tôi đã dùng bằng cớ dân tộc học nói về địa điểm cư trú “chiềng” là trung tâm một “mường” của tộc Thái để xác định liên hệ chiềng-Trịnh này. Cũng nên lưu ý đến thêm đến một sự kiện được Hoàng Xuân Hãn (La Sơn Yên Hồ.., II, tr. 626) dẫn từ Lê Quý Đôn, để liên hệ: Trước khởi nghĩa, đã có một người tên là Trịnh Đồ từ Ai Lao đem voi về biếu Lê Lợi – chi tiết cho thấy đó là một nhân vật quyền thế trên đất Ai Lao, có họ được chuyển âm là Trịnh, từng giao thiệp với chúa Mường Lam Sơn. Còn Lam Sơn thực lục thì nhắc chuyện nhà sư núi Đá Trắng bên Lào xuống để-mả cho Lê Lợi, cũng họ Trịnh. Ông Hoàng Văn Chí không phải là nhà chuyên môn, không phân biệt rõ Tày và Thái (sđd, tr. 112) nhưng sự lẫn lộn này cũng dễ hiểu bởi vì ngay trong một nghiên cứu chính thức (Các dân tộc ít người ở Việt Nam [các tỉnh phía Bắc], 1978) người ta vẫn thấy có sự pha trộn, trùng lắp trong danh xưng cũng như từ thực tế tập họp. Các nhà nghiên cứu nói đến “nhóm/khối Tày Nùng... Tày Thái”, đã chỉ ra những nhóm Thái Trắng ở Bắc Bộ tự gọi là Thổ, chịu ảnh hưởng Tày hoặc Tày hoá, rồi có nhóm đến Thanh Hoá lẫn lộn với người Lào và người Mường mà “nhóm đông đảo nhất ở Nghệ Tĩnh” có tên Tày Mường / Tày Chiềng, còn một nhóm ở đầu nguồn sông Lam thì gọi là Tày Pao. Dấu vết ngày nay có thể khác ngày trước nhưng các chứng dẫn địa danh, con người của thời chúa Lam Sơn là của vùng tộc người Thái rõ rệt tuy không thể xác quyết có bao nhiêu thành phần Tày hay các tập họp khác trong đó.


Các họ Trịnh khác đã có mặt trong thời Lê sơ, lúc đầu khởi nghĩa. Và số phận, hành tung của những người này đối với Lê Nguyễn Mường cho thấy có sự khác biệt. Bà Thái hậu “gà mái gáy sớm” Nguyễn (thị) Anh, dâu ông vua khởi nghiệp, đã giết Trịnh Khả, Trịnh Khắc Phục cùng con trai của họ (1451). Phan Huy Chú cho biết (Lịch triều... I, tr. 345): “Vua (Lê Lợi) thấy ông (Trịnh Khả) biết tiếng Lào sai mang tờ điệp nhờ vua Ai Lao giúp binh lương.” Ông sử gia này đinh ninh rằng Trịnh Khả là “người nước ta”, nên dùng chữ “biết tiếng Lào” mà không thấy đó là ngôn ngữ chính của viên tướng từng đủ quyền để phù trợ lên ngôi vua một cậu bé bị nghi ngờ không phải là dòng Lê! Trong tranh chấp về sau, Trịnh Duy Sản đã giết Tương Dực Đế một cách khinh miệt (1516). Rồi trong việc phò tá họ Lê, có sự xung đột giữa Trịnh Duy Sản với Nguyễn Hoằng Dụ. Tất nhiên là cũng có các quan họ Trịnh, Nguyễn khác, nhưng dấu vết hành xử của những người trên chứng tỏ họ là kẻ có thực quyền với bộ hạ riêng, đại diện cho dòng họ. Có thể ghép luôn đến việc xung đột giữa Trịnh Kiểm và các con Nguyễn Kim về sau mà người ta đã gán cho ý nghĩa chỉ là một sự tranh chấp cá nhân. Chúng ta cũng không thấy chứng cớ gốc thiểu số nơi ghi chép trong gia phả của chúa Trịnh do ông Hoàng Xuân Hãn tìm được (thật dễ hiểu như với trường hợp họ Nguyễn) tuy nhiên dấu vết nghèo khó và mối liên hệ mật thiết với một gia đình Chàm của Trịnh Kiểm cũng là những dấu hiệu gián tiếp. Bốn ông tổ liên tục trong gia phả đều cưới vợ họ Hoàng, chứng tỏ đó là hôn nhân tộc đoàn chứ không phải giữa các gia tộc. Tướng Hoàng Nghĩa Ái (1528-1608) có mặt rất nhiều trong chiến trận phục hưng, là thuộc về phía ngoại của Trịnh Kiểm. Và Hoàng là một họ thường thấy ở vùng biên giới phía bắc trong các tập họp Tày, Thái, Nùng. Chuyện Trịnh Kiểm được trung châu hoá, nho hoá thành chuyện ăn cắp gà nuôi mẹ (Phan Huy Chú và truyền thuyết dân gian)ï, và được biện minh theo thời mới hơn, kiểu “có tật, có tài” (Hoàng Xuân Hãn) nhưng gốc gác ăn trộm ngựa (khiến mẹ bị chết) vẫn được con cháu lưu giữ dấu tích, chứng tỏ có một sinh hoạt vùng hoang dã gắn liền với con ngựa, bình thường ngay trong cả hành động trộm cắp nơi xóm làng nên người ta không coi là xấu xa, không cần phải giấu giếm. Địa danh Chiêng/Chiềng có rất nhiều trên vùng bắc Thái, Lào, Việt hiện nay: Chieng (âm Anh, Pháp ngữ) Mai, Chieng Rai, Chieng Sen, Chiềng Xến, Chiềng Vang... Có thể nghĩ rằng những chi nhánh Tày Thái đổ xuống nam thành lập các vương triều Xiêm, Chieng Mai, Lan Xang đã rẽ lấn qua đông đến tận ngang Thanh Nghệ mà một người sẽ trở nên Phó Vương Đông Kinh trong lúc tập thể còn lại vẫn nghèo khó lạc hậu để trở thành người “dân tộc” Thổ, Tày Mường, Tày Chiềng... bây giờ.

Ngay từ lúc đầu, Trịnh Kiểm đã có ý lấn quyền nhưng hướng tiến quyền lực về Đông Kinh phải cần đến vai trò của Lê hẳn đã làm ông bỏ ý định đó. Chút danh vị chính thức của dòng Lê Trừ đã khiến cho người đầu tiên nối nghiệp – Lê Duy Bang, đủ kiêu ngạo để chống quyền thần (Trịnh Tùng), rốt lại bị thiệt thân trong cuộc xung đột công khai nữa giữa hai nhóm chủng tộc ngay từ khi chưa lấy lại đất cũ.


Suốt cả giai đoạn cầm quyền về sau, Trịnh đã không thể cướp ngôi Lê vì thế lực yếu ớt của tập đoàn Tày Thái Nùng trước tập đoàn Mường Việt ở Đông Kinh dù họ Trịnh đã nhiều lần toan tính mở rộng liên minh. Trịnh Tráng có một hoạn quan gốc thiểu số (Hoàng Nhân Dũng) như ta suy đoán liên hệ đến những hoạn quan họ Hoàng khác, và đã ban cho y tên Trịnh Lãm. Trịnh Tạc gả con, ban tên Trịnh Kì (1670?) cho Đào Quang Huy, con Đào Quang Nhiêu, tướng nhiều công trận ở phía nam, rồi hoạn quan Hoàng Công Phụ dưới quyền Trịnh Giang nuôi Nguyễn Tuyển, lãnh tụ cuộc loạn Ninh Xá, hai sự việc chứng tỏ hướng muốn liên hệ với dân gốc trung châu trên bậc thang quyền bính cũng như ở tầng lớp thấp hơn, trong dân chúng. (La Sơn Yên Hồ.., II, tr. 737, ghi tên Trịnh Kì của TT là Trịnh Cơ.) Hoạn quan gốc Nùng Hoàng Ngũ Phúc có mối quan hệ với thương khách Trung Quốc giúp ông tạo nên cơ nghiệp danh tướng, cố mở ra hướng thoát khỏi sinh hoạt quan liêu triều chính, chứng tỏ thêm trong việc nuôi “gia khách” Nguyễn Hữu Chỉnh dòng dõi nhà buôn nội địa, đám các lái của Thanh Nghệ. Nhưng sự kết hợp không thành ngay chính trong nòng cốt liên minh. Anh em chú bác họ Trịnh giành giật chống đối, chém giết nhau rất nhiều và rất liên tục. Hoàng Nhân Dũng bị giết vì “mưu nổi loạn” (1652) trong đó có công tố cáo của Đào Quang Nhiêu (+1672). Hoàng Công Phụ bỏ trốn trước phản ứng của nho sĩ và phe ngoại Trịnh Doanh (1740), thuộc trung châu, trong lúc chính Nguyễn Tuyển cũng có mưu đồ riêng nên đã dựng cờ khởi nghĩa, xưng là Minh chủ, đúc tiền Ninh dân thông bảo, rõ ràng với toan tính mở đầu triều đại chứ không phải định làm một cuộc “cách mạng nông dân” nào cả. Tính hời hợt của liên minh chứng tỏ ở việc Trịnh Doanh đã ban họ Trịnh cho một người cậu (1745) vậy mà lúc phong chức Đại tư đồ (1748) vẫn còn tên chính là Vũ Tất Thận. (Cương mục, II, tr. 585, 639.)


Riêng về trường hợp Nguyễn còn có thêm kiểm chứng đối chiếu từ sự suy nghĩ lại một chứng cớ lịch sử và các phát hiện khác bây giờ. Nguyễn Khoa Chiêm trong Nam triều công nghiệp diễn chí (1719) ghi Nguyễn Hoàng vì một kỉ niệm bị thầy chùa coi thường nên “chuộng đạo sĩ, không dùng tăng thích” (bản dịch in 2003, tr. 36). Trong một thế giới trung châu có các triều vua hâm mộ đạo Phật, cả đến Lê Lam Sơn vào Đông Kinh cũng đã cất chùa to lớn, mà Nguyễn Hoàng xung đột với tăng thích tức là vẫn có sự cách biệt, và việc ưa đạo sĩ không phải là sự thiên ái Đạo Giáo Việt Trung mà chỉ chứng tỏ về tính cách gần gũi với sinh hoạt bùa chú thầy mo như của các tập đoàn thiểu số ngày nay. Việc ông lập khu vực li khai mà liên hệ với Bà Chúa Xứ Chàm là dấu hiệu của thiên hướng tin thầy mo trong người ông, trong dòng họ ông còn lại trên đất “gia miêu” của tông tộc, còn ràng buộc với gốc cũ với xác định chỉ là “ngoại trang”.


Ông Đào Thế Tuấn (“Thử bàn về các nghịch lí và mâu thuẫn của văn hoá Huế” trong Nhiều tác giả, Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam, Huế 2002, tr. 193) dẫn L. Cadière cho biết tiếng Huế gần với tiếng Mường, và dẫn Từ Chi (1996) với nhận định rằng cách ăn uống của Huế có nhiều yếu tố giống với Mường. Thế rồi ông K.W. Taylor cũng ghi nhận tiếng Hà Nội giống với tiếng Huế. (“Surface Orientations in Vietnam: Beyond History of Nation and Region”, The Journal of Asian Study 57, Nov. 1998, tr. 951.) Taylor sử dụng chứng cớ này (mà chúng tôi không biết chi tiết của luận cứ) để chứng tỏ có một sự “Bắc tiến” của ngôn ngữ Việt, nhưng chúng tôi nghĩ rằng nguyên khởi thuỷ gốc Mường của hai dòng họ Lê, Nguyễn là đủ giải thích rồi, chưa kể việc Nguyễn nắm quyền toàn quốc gần một thế kỉ cũng khiến cho người các địa phương bắt chước tiếng nói của dòng họ, của vùng đất sang quý. Sự liên hệ ngôn ngữ Mường Việt tưởng không cần tìm tòi đâu xa vào tận thời tiền sử như khổ công của các nhà khảo cổ sử dụng ngữ học. “Văn hoá Huế” không có gì là “nghịch lí” và “mâu thuẫn” cả; nghịch lí chẳng qua vì chúng ta xếp ngược, mâu thuẫn chẳng qua vì chúng ta lộn trái sự việc mà thôi. Vì tưởng là nghịch lí, mọi dấu vết văn hoá phải bắt đầu, hay dù không bắt đầu, cũng phải có gốc gác từ người “Kinh” cao cả xa đời, nên ví dụ không thể loại người Mường ra (ý ẩn tàng), người ta đã giải thích phong tục hát xéc pùa / sắc bùa là “tập tục cổ của người Việt khi ý niệm Mường Việt chưa tách đôi.” (Tôn Thất Bình, Huế – Lễ hội dân gian,
Nxb. Thuận Hoá 2003, tr. 157-175.) Cứ nhìn lễ hội đó đơn giản, riêng biệt khoanh vùng từ trên xứ Mường chật hẹp lại lan xuống đồng bằng vào Quảng Nam, Gia Định, Bến Tre, tràn trên đất chúa Nguyễn mà Nghệ An như điểm trung gian tiếp cận và Thừa Thiên của Kinh đô (Phò Trạch) mang dạng phức tạp nhất nhưng dấu vết cổ còn nhiều nhất, thì thấy ngay ra con đường đi hữu lí của một phong tục theo với một tập họp người càng lúc càng sang cả, có lúc lên đến tột đỉnh xã hội. Chúng ta sẽ còn bàn đến vấn đề ưu thế này của ngôn ngữ địa phương liên hệ đến thủ đô chính trị lần nữa.

Thế là trong khi co lại ở Thanh Nghệ để chiếm quyền hành cũ, tập đoàn Mường Thanh Hoá, với tông tộc khác, lại phát sinh thêm quyền lực rẽ sang một hướng nữa: Phú Xuân Huế. Vấn đề phân chia lãnh địa hùng cứ rõ ràng chủ yếu là do tính chất thân tộc nên khiến cho không ai có thể chiếm lĩnh được hết toàn vùng. Trịnh Lê với trung tâm Thanh Nghệ, Mạc ở miền đông châu thổ, cả hai giành giật Đông Kinh để trống vùng phía nam cho Nguyễn kiến tạo lực lượng riêng. Lớp người mới này cũng không thoát khỏi ý thức thời đại nên vẫn chú trọng đến nòng cốt là những kẻ thân thuộc: Sử quan Nguyễn luôn luôn nhắc đến từ “Quý Huyện”, “Quý Hương” để chỉ những người phục vụ gốc Tống Sơn theo Nguyễn Hoàng vào Nam. Tuy nhiên, lại cũng như các trường hợp khác, đám dân dưới quyền cai trị của họ vẫn có tác dụng ngược lên trên, làm rẽ hướng lịch sử.


Dấu vết của một quyền bính chưa được khẳng định chứng tỏ trong toán người dưới tay Nguyễn Hoàng lần mò tìm chỗ trú đóng, loay hoay từ Ái Tử (Dinh Cựu) qua Trà Bát (Dinh Cát)... rồi xê dịch ở Thừa Thiên đến chỗ cuối là Phú Xuân. Nhưng ngay ở địa đầu đó, Nguyễn Hoàng cũng thấy được một vùng tương đối phồn thịnh, an bình hơn, có những tập họp dân chúng với sinh hoạt phức tạp hơn nơi ông vừa rời bỏ, như chứng cớ nơi tác giả Ô Châu cận lục viết ba năm trước. Đến thời Dương Văn An thì Quảng Trị đã có hậu phi, quan chức triều đình Lê Mạc, mà vẫn còn vài làng nói tiếng Chiêm. Sự pha giống ngay dưới đồng bằng cũng đã đậm nét mà mức độ sinh hoạt của các tập đoàn lại vẫn lộ dấu ấn Chàm, tách ra với trung ương, chứng cớ nơi lời thú nhận của sử quan về việc triều đình Đông Kinh không với tay quyền bính tới những vùng đất tưởng là đã thuộc triều đình từ lâu, trong đó những đám dân Việt có thời phải chịu đựng sự “kì thị” dưới quyền của chúa Chiêm như lời hịch của Lê Thánh Tông tố cáo. Bà Chúa Xứ Chàm đã in dấu trong chiến thắng củng cố quyền lực đầu tiên nơi trấn nhậm (thần Trao Trảo trong chiến thắng Lập Bạo) và cũng tiếp tục là vị thần củng cố thế phân li của Nguyễn Hoàng (thần Thiên Mụ), của họ Nguyễn. Chúa Nguyễn cũng tự coi mình là Thiên Vương chứ không phải là Thiên tử như phía Bắc. Ý thức tách biệt rõ ràng khiến người dưới quyền Chúa không ngần ngại xác định mình thuộc một Nam triều đối kháng với Bắc triều của Trịnh Lê, sự xác nhận lần đầu tiên vượt khỏi truyền thống phân biệt Đông Tây cũ (xem sau).

Những năm đầu thế kỉ XX, L. Cadière thấy có tập họp người Nguồn tự cho là, và được coi là thiểu số, mãi đến tận ngày nay trong nghiên cứu của các nhà dân tộc học CHXHCN/VN. Tuy nhiên Cadière đã thấy họ có gia phả với nguồn gốc quan chức của Lê và nghĩ rằng đó là người “Việt”. Chúng tôi không thấy được chứng cớ chi tiết để biết đó là những quan chức dưới đồng bằng làm quan trên “nguồn” và bị thổ hoá, hay vốn là những tập họp “thổ” theo Lê, có được quan chức và cứ tiếp tục mức sống cũ, dù có thay đổi chậm chạp theo thời gian. Tuy nhiên, một tập họp người đông đảo như thế khó có thể là phát sinh từ những ông quan đồng bằng lên cai trị vùng mạn ngược. Giả thuyết đó là những tập họp “thiểu số” từng theo Lê có lẽ phải hơn. Trên vùng đồng bằng ngày nay, họ Nguyễn trong dòng Kinh Cựu của bà chúa Chàm mang bề ngoài là “Việt” hơn những người có họ Trà, Chế, Ma, Mang (Man) giữ dấu vết “Chăm” cũ (mà không còn nhận ra nữa), kể cả một họ Ung làm chủ vựa nước mắm ở ngay thành phố Phan Thiết, tất cả chứng tỏ một tình thế nhân chủng phức tạp khi lãnh địa thay tên đổi chủ. Thế là đã rõ ràng phải có quan niệm tập họp “người nói tiếng Việt” (K.W. Taylor) thay cho quan niệm “chủng tộc Việt” ẩn khuất trong dòng tự phụ “người Kinh”. Tiếp theo, sự phát triển quyền lực của các chúa Nguyễn xa đến vùng Đồng Nai Gia Định lại càng tăng áp lực phân hoá đè lên tập đoàn gốc Mường ở Phú Xuân.

Vẫn biết các chúa Nguyễn có tổ chức những cuộc di dân từ miền Trung vào đất Gia Định (nói chung toàn thể đồng bằng phía nam), và hẳn có những toán di dân tự do không ghi nhận được, nhưng không thể coi nhẹ các tập đoàn người khác vốn ở đây, và đến ở đây. Sử sách đã ghi nhận việc các toán Minh thần lưu vong được chúa Nguyễn đẩy xa kinh đô để khỏi lo hậu hoạn sát nách. Tuy nhiên với vai trò người cầm đầu khu vực, Nguyễn đã khiến cho các di dân phương Bắc này phải thích ứng với quốc tịch mới. Tính chất đồng văn khiến họ dễ phục tùng một vị Thiên tử không cần phải là Hán, nhất là khi triều đình đó đã gọi dân mình là “Hán dân”, phân biệt với di dân là “Đường nhân” và người tại chỗ là “Phiên dân”. Tuy vị chúa được xưng tụng với danh hiệu Thiên Vương hơi lệch lạc nhưng người ta vẫn nhận ra tính chất Thiên Tử trong đó để dễ dàng hoà nhập. Cho nên tập đoàn Mạc Hà Tiên cũng không thể đi trệch đường hướng chung. Sự hoà hợp không chỉ mang tính chất tri thức của tầng lớp trên mà đậm đặc cả yếu tố thần bí chung cho các tập họp người phía tầng dưới xã hội. Chính trong cuộc chiến Nguyễn Tây Sơn cho ta thấy nổi rõ dấu vết Thiên Địa Hội của Trung Hoa, về sau sẽ phát sinh ra các tôn giáo mới ở khu vực này. Giáo chủ Phật Giáo Hoà Hảo trước khi mang danh hiệu đạo Khùng Điên hơi có tiếng tăm thì đã có một tên hiền lành hơn: đạo Xến, phát âm Việt bình dân ở nơi này của chữ “sinh” (chàng trai). Có vẻ như ông hương cả, thân sinh ra Cậu Tư Hoà Hảo, là người Việt chứ không phải là người Kinh!


Có thể nhìn vào tính chất cấm kị hôn nhân để nhận ra hướng phối hợp nhân chủng mở rộng ở Đàng Trong. Về phía Trung Quốc, quan niệm phụ hệ gắt gao đã cho phép các con cô con cậu lấy nhau vì được coi là khác “họ”, không chia xẻ huyết thống. Các câu chuyện về “biểu ca”, “biểu muội” đầy dẫy từ Hồng lâu mộng tới sách kiếm hiệp Kim Dung. Đến miền Bắc Việt Nam, sự cấm kị thắt thêm một chút, chỉ cho phép giải toả ở thế hệ tiếp theo: “Cháu cậu mà lấy cháu cô, Thóc lúa đầy bồ giống má nhà ta.” Điều đó xuất hiện ngay trong hình luật đời Lê sơ: “Cháu cậu lấy cháu cô thì không cấm” (Phan Huy Chú, Lịch triều... Hình luật chí, tr. 329, chú 1, dẫn Thiên nam dư hạ tập) đã thể hiện một lối mở mà ta hoàn toàn không thấy xuất hiện ở vùng Đàng Trong ngày nay. Người ta cứ cho rằng ở phía Nam không có các “họ” lớn vì lẽ lưu dân đi từng nhóm riêng lẻ theo biến loạn, do sự cùng cực tha phương cầu thực mà ra. Tuy nhiên người ta không nhận ra rằng tính chất đại gia đình ở Đàng Trong không nằm trong quan niệm gói tròn vào một “họ”. Chứng cớ là ở đại gia đình Nguyễn Tây Sơn. Với quan niệm ngày nay đã đổi khác, không thể nào coi họ Bùi có bà con với Nguyễn Tây Sơn. Vậy mà sử quan Nguyễn ghi chuyện sau khi Quang Trung mất: “cậu” (Quang Toản) là Bùi Đắc Tuyên “làm Thái sư quản đốc trông coi các việc trong ngoài”, chức quyền tột đỉnh đến nỗi gây ra biến loạn, ít nhiều gì cũng khiến cơ nghiệp Tây Sơn sụp đổ nhanh chóng hơn. Và ông chồng bà Bùi Thị Xuân được giáo sĩ đương thời gọi là “oncle maternel du roi” chứng tỏ lúc bấy giờ Thiếu phó Trần Quang Diệu được coi là “dượng” của vua. Quan niệm đại gia đình mở rộng như thế khiến cho sự cấm kị hôn nhân trở nên gay gắt hơn, còn lưu dấu đến gần đây, trên vùng Đàng Trong cũ. Ở đây, hễ hơi có “dấu vết” ông này bà kia lấy nhau, dù vào tận đời xa tít thì cũng là duyên cớ khó khăn (tuy đôi khi vẫn vượt qua được) cho các cặp trai gái bây giờ. Ngược lại quan niệm đại gia đình như thế hẳn đã dẫn đến kết quả là các cuộc hôn nhân dị chủng có thể trở nên dễ dàng hơn. Nghĩa là không nên quên vai trò không nhỏ của các người bản thổ trong sự cấu thành dân số ở Đàng Trong.


Lê Quý Đôn chú ý đến những người “man”. Từ những người này, ta thấy phát sinh các họ mới hoặc ngẫu nhiên như họ Danh, hoặc được vua ban tặng như họ Thạch, Sơn, Đào... Không nên quên tập đoàn Chàm nay còn thấy ở Tây Ninh, Châu Đốc và rải rác nơi khác, tập đoàn có kĩ sư canh nông Ung Bảo Toàn gặp đại nạn trong Vụ án gạo Miền Trung dưới thời Đệ nhất Cộng hoà, là chú họ của Bộ trưởng Ngoại giao VNDCCH Ung Văn Khiêm, cháu nội ông (hương) Chủ Tre, con một bà goá, theo thông lệ sử thần hiện đại phải được coi là người lao động “nhà nghèo” nhưng lại kiếm đủ tờ giấy bộ lư (trăm bạc) để hối lộ ông đốc Tây của ngôi trường trung học độc nhất Miền Tây, mong xin cho ông con ngang tàng trở lại trên ghế nhà trường. (Nguyễn Thành, Đệ nhất Cù lao, Nxb. Văn nghệ TP. HCM, 1995, tr. 18, 20, 49.) Và không đếm hết được các người “núp bóng” trong họ Nguyễn của lớp người trên thượng tầng xã hội. Những đổi thay do sự thu hút hay ép buộc hướng thượng làm che lấp bản thể xưa cũ của họ nhưng không phải họ đã không hiện diện dưới bề ngoài khác. Cũng như khi ta quen gọi con sông lớn nơi này là Cửu Long và giảng nghĩa theo tính cách văn hoá quen thuộc là “Chín Rồng”, để giải thích là vì nó có 9 phân lưu ra biển mà không chịu tính xem có đủ như thế không (ráng đếm lắm thì chỉ có 8 mà thôi), thì cũng nên chịu phục thiện nhận rằng tên đó là từ “klong”, danh từ chung có nghĩa là “sông”. Cứ giở một bản đồ, ví dụ của bán đảo Mã Lai là thấy ngay các “klong” tràn ngập! Và hãy nhìn các phụ nữ bận bà ba, quấn khăn bịt đầu bán hàng ngoài chợ, hãy thưởng thức món canh chua, chua lè!



TRUNG TÂM QUẤY ĐẢO QUY NHƠN


Biến động Tây Sơn nổi lên từ đất Quy Nhơn gặp dịp nảy nở của những quan niệm chính trị mới từ phương Tây tràn sang nên từ một đám cướp phản nghịch, “nguỵ triều” của dòng họ thắng thế, trở thành những anh hùng lãnh đạo cuộc “cách mạng nông dân” đánh tan ngoại xâm, cứu nước, cứu dân. Kì tích tung hoành ngắn ngủi của họ cùng với sự ưu ái dành sẵn của người thời nay làm che lấp những khuyết điểm tự thân, và khiến người ta lờ đi thảm cảnh kết cục của họ. Tuy nhiên dù đứng vào phe phái nào đi nữa để nhận định thì biến động Tây Sơn vẫn là lớn trong lịch sử Việt Nam. Lớn trong tầm mức sự kiện đã xảy ra vào lúc đất nước Việt Nam thành hình gần như ở mức độ của ngày nay, để ta phải lưu tâm về phương diện hình thành của nó đã dẫn dắt tương lai như thế nào chứ không phải chỉ như là cái đuôi của một quá khứ.

Ý muốn bành trướng quyền lực là vô cùng nhưng rốt lại vẫn phải chịu những giới hạn của chính bản thân, của sức phân li bên rìa vùng với tới của khả năng. Điều đó thấy rất rõ trong thực tiễn của chính sách ki mi từ các triều đại Trung Quốc mà Đại Việt cũng theo đuổi một chừng mực. Khả năng quyền lực của Đông Việt Mạc không ngăn được Tây Việt Trịnh Lê, khả năng Đông Kinh Trịnh Lê không với tới Phú Xuân Nguyễn. Và cuối cùng, ở đây, quyền lực Phú Xuân tỏ ra lơi lỏng nơi một vùng cận sơn trong vương quốc của mình. Đàng Trong là một thực thể chính trị có màu sắc riêng biệt không phải vì một định kiến nào mà vì chính nơi bản thân thành lập và phát triển của nó. Cách biệt với Trung Quốc bằng dải đất Đàng Ngoài, người Đàng Trong làm ăn với thương nhân Trung Hoa mà không biết sợ Thiên tử Hán: Quan chúa Nguyễn đã ghép tội Chu Thuấn Thuỷ, một trung thần vất vưởng của Minh còn mang đầy tự phụ, là cậy thế Trung Quốc nước lớn, khinh lờn nước nhỏ. (Chu Thuấn Thuỷ, Kí sự đến Việt Nam năm 1657, bản dịch An Nam cung dịch kỉ sự 1999, tr. 31.) Và cũng với kết quả đó là những biến động khởi đầu ở đất Tây Sơn. Vẫn biết nguyên nhân nổi dậy ở đây đều xoay quanh chuyện chống khổ dịch, thuế má, từ những chứng từ bác học của Li Tana ngày nay (Xứ Đàng Trong, Nguyễn Nghị dịch, TP. Hồ Chí Minh 1999) đến ngược về chứng cớ của các giáo sĩ đương thời, lấp ló trong lời đồn (báo cáo) thành sử liệu về việc Nguyễn Nhạc thua bạc quỵt tiền thuế, và rõ ràng hơn, là lời khuyên can của cận thần Nguyễn Ánh khi ông này vừa chiếm xong Quy Nhơn đã muốn đánh thuế nơi này... Nhưng nổi loạn vì khổ dịch, thuế má, đói rách thì nông dân Đàng Ngoài vào lúc đương thời cũng từng vác cày vác bừa làm giặc mà không lật đổ nổi chính quyền Trịnh Lê. Và Đàng Trong cũng có loạn ở những nơi khác. Chỉ có Tây Sơn thành công.


Chẳng phải vì “địa linh nhân kiệt” mà chỉ là sự hội tụ của những điều kiện khởi phát vào nơi đắc thế của nó trên những tập họp người có sự chuẩn bị, dù trong vô thức. Một điều nổi bật của Tây Sơn mà họ còn giữ suốt thời gian tung hoành, đó là sức mạnh công phá của họ, được tạo thành do nơi bản thân tập họp Thượng Chàm (vùng giáp giới Bình Định Phú Yên đến ngày nay vẫn còn một tập họp gốc Chàm), lưu dân Hoa Việt buôn nguồn ngang dọc, nối tiếp ở nội địa dòng phát triển thương mại quốc tế lan đến trong vùng, ngay dưới quyền chúa Nguyễn, đã tỏ ra có thực lực lớn lao. Trong chừng mực nào đó, Tây Sơn cũng có dạng như nhóm Lam Sơn của thế kỉ XV. Rồi cũng như những tập họp quyền lực khác, ngoài trung tâm nòng cốt vùng tiếp giáp núi đồng ở nam Bình Định ngày nay, Tây Sơn còn có một vùng ngoại vi tiếp nối thuộc Phú Yên, Quảng Ngãi lúc đầu còn ở thế chênh vênh, chứng tỏ với trường hợp xoay chiều của Chu Văn Tiếp, Nguyễn Phúc Long, nhưng sẽ dần dần củng cố khiến trở thành “thang mộc ấp” của lực lượng mới như xác nhận trong lời hịch chuẩn bị chinh Nam 1792 của Quang Trung. Tất nhiên với thời gian phát triển họ phải có đổi thay, nhất là từ ý thức của người cầm đầu, nhưng rõ ràng nòng cốt của họ vẫn còn là điều kiện tồn tại thiết yếu cho tập họp. Quân ra Bắc năm 1786 gồm đủ hạng người lẫn lộn “chủng tộc” được tôi luyện trong một vùng biên cương. Chiến thắng Đống Đa mang một tính chất khởi nguồn văn hoá khác biệt ít được chú ý tới. Các cuộc chiến nội bộ thời Trịnh Lê dưới mắt các giáo sĩ trông như ở một tuồng hát bội Việt Trung trong khi quân Tây Sơn “mường mán” như cơn lốc cuốn theo những gì nó đi qua, không quan tâm gì cả đến những lễ tiết được phía đối nghịch coi là trọng hệ, như ngày Tết. Vì thế ta không lấy làm lạ về những chiến thắng lẫy lừng. Nhưng đó cũng là nguyên nhân thất bại của họ. Ta hãy nhìn các thủ lãnh lêu bêu đi tìm nơi dừng chân cho triều đại. Họ không có thời gian cả trăm năm để lựa chọn như Nguyễn Gia Miêu. Nguyễn Lữ không mấy an tâm trên vùng Cầu Sơn đất Gia Định, xa lánh đề phòng trung tâm thương mại Sài Gòn. Nguyễn Nhạc mở rộng Đồ Bàn nhưng không thấy đường tiến thủ đành để thành Hoàng Đế trở thành nơi cầu nhàn hưởng lạc như phe chống đối tố cáo. Nguyễn Huệ dừng chân ở đất địch Phú Xuân, rồi nhấp nhổm nhìn về Trung đô Nghệ An do chút nghe ngóng về quá khứ tộc đoàn bản thân mà chưa thấy được cơ sở của thực lực nào, cái thực lực chính của ông vẫn là mang từ đất Quy Nhơn đi, nơi người ông trối trăng gởi gắm là Trần Quang Diệu, viên danh tướng lạc loài văn hoá, dám so sánh thần Xã tắc nghiêm minh với chó! Nguyễn Tây Sơn không có thời gian để lựa chọn như Nguyễn Gia Miêu, bởi vậy khi người cầm đầu mất sớm là cơ đồ Tây Sơn lộn nhào.


Cũng có thể thấy nguyên nhân sụp đổ của Tây Sơn xa vào tận cùng nguyên nhân suy yếu của các nước Chàm xưa. Vẫn biết tạo dựng lịch sử là việc của con người nhưng khi con người không tìm ra phương cách thoát khỏi áp lực của vùng sinh sống để đổi thay ràng buộc thì phải chịu luỵ vì các điều kiện của nó như những chủ nhân trước kia. Trên những vùng đồng bằng hẹp Miền Trung, các vương quốc Chàm đã vùng thoát sự nghèo nàn bằng cách hướng về mặt biển, hoặc với đường lối giao thương (làm vị trí trung gian giữa Trung Quốc và các hải đảo) hoặc với phương thế cướp bóc (và bị cướp) vì sử dụng phối hợp với các toán cướp biển Mã Lai chống sự cạnh tranh của Đại Việt (Kenneth R. Hall, sđd, 184-185), hoặc cùng đồng thời cả hai. Chứng nhân xưa cho thấy vua Chàm sang hơn vua Việt, có thể vì hoàng đế Việt (như Lê Hoàn) vốn là ông chủ ruộng, tuy có gắng gỏi buôn bán nhưng địa thế thất lợi hơn nên làm thêm việc cướp chặn từ Chiêm Thành mà không thấy dáng vẻ sang cả hơn (câu cá, phơi vàng bạc...) Chúa Nguyễn và Nguyễn Ánh gốc nội địa, không có quá khứ truyền thống để làm việc thứ hai thì cường thịnh nhờ đường lối thứ nhất khi họ dừng lại quanh vùng Phú Xuân, gần nơi có tập họp cửa biển Đà Nẵng – Hội An, chiếm vị trí cũ của Chiêm Thành, mở rộng với bên ngoài, củng cố quyền lực mới của họ. Còn Tây Sơn vốn là dân buôn nguồn nên không có truyền thống đi biển, lại bị bịt kín đường ra khơi trong lúc phong trào giao thương Đông Tây dâng cao, có nhờ cậy đám Tàu Ô Thiên Địa Hội thì lợi tức chẳng được bao nhiêu, cấp thời chỉ có thể sử dụng họ như một lực lượng che chắn phía biển cho mình. Ông vua già Nguyễn Nhạc “cầu yên tạm bợ” cũng chỉ là cam chịu theo tình thế thực tế mà thôi.

Tuy nhiên sự nổi dậy của Tây Sơn đã đặt ra vấn đề lớn cho sử học Việt Nam. Có thể trở lại với sự “thống nhất” của người Thái tuy vấn đề phức tạp hơn nhiều vì phía tây có sự lớn mạnh của người Miến chen vào. Các nhóm Thái lớn của vương quốc Chieng Mai, Lan Xang (với thủ đô Luang Prabang rồi Vạn Tượng), Xiêm La đã không hợp nhất được dù từ thủ đô Bang Kok, các thủ lĩnh ở đấy đã thu phục đất đai của Chieng Mai, của Vạn Tượng và gặp sự cản trở của người Pháp khiến cho mộng thành lập “Đất của người Thái” – Muang Thai, Thailand, vẫn chỉ là ước mơ. Trên đất Việt Nam (về sau), Trịnh đã phá vỡ ranh giới phân tranh Đàng Trong Đàng Ngoài với cơ hội nổi dậy của Tây Sơn. Và tiếp theo là những cuộc điều quân dữ dội từ nam chí bắc của Nguyễn Huệ đã đánh tan các thế lực cát cứ lớn để khi Tây Sơn thất bại thì Nguyễn Ánh có đất đai gồm một trong tay. Tất nhiên tiến trình đó không nằm trong ý thức “thống nhất dân tộc, đất nước” của người nào cả như đã bàn từ trước. Có điều, sự tập họp cuối cùng đã thành hình Việt Nam. Thế đương đại của Việt Nam còn chờ đợi những biến chuyển tiếp theo nhưng cơ sở tạo dựng là của thế kỉ XVII, XVIII từ trong chuyển động của các chính quyền Trịnh Nguyễn với sự quấy đảo của Tây Sơn từ đất Quy Nhơn có kết hợp phức tạp hơn người ta thường tưởng.



HUẾ, GIA ĐỊNH, HÀ NỘI


Hưởng lợi chính trong tình thế mới là con cháu của tập họp người từ núi rừng Thanh Hoá được tôi luyện, pha trộn trọn vẹn trên vùng đất dừng chân, phát triển, đến không nghĩ rằng mình cũng chỉ là kẻ phiêu lưu. Tình thế vẫn như kẻ du canh du cư ngày xưa, với cái khác là quyền lực lớn hơn trước nhiều sau khi thu thập tiềm lực mới. Phú Xuân trở thành Huế vẫn với những vướng víu của quá khứ ràng buộc khả năng tập đoàn lãnh đạo.


Trong tình hình du cư vì biến loạn, họ Nguyễn – Nguyễn Ánh, đã đến xứ Gia Định giàu tiềm năng trong khuôn khổ nông nghiệp truyền thống vùng, và đồng thời họ hưởng được âm vang giao thương quốc tế đưa từ châu Âu còn xa lạ. Đất Gia Định trở thành nơi khởi nghiệp trung hưng của họ Nguyễn nhưng tính thân tộc vẫn khiến họ chọn kinh đô là Huế. Khả năng quân sự còn lại từ trong chiến tranh nội bộ đủ giúp họ bành trướng sang Cao Miên (Trấn Tây Thành), Ai Lao (Bồn Man, Lão Qua) nhưng thực tế quản trị vùng đất dưới quyền đã chứng tỏ là họ không kham nổi. Bắc Thành và Gia Định Thành dưới tay Tổng trấn tuy vẫn thuộc quyền trung ương nhưng là dấu hiệu của sự phân li phức tạp: Một nơi là đất của một vương triều cũ còn phải cai trị bằng trấn áp, một nơi sau chiến thắng đã trở thành chông chênh chỉ vì tổng lực đã chuyển về kinh đô. Sự bấp bênh thấy rõ trong vụ Lê Văn Khôi nổi loạn ở Gia Định, bám trụ dằng dai nơi ngôi thành đã được xây dựng với chủ ý chống Tây Sơn. Trên đất cũ của Trịnh Lê thì có lời Minh Mạng hỏi dò bầy tôi: “Sao Lê Chất không dẹp yên được loạn ở Bắc Thành?” Ở đó, Huế đã phái quan cai trị xuống tận từng vùng, phần tuyệt đối là dân Đàng Trong dù là “nguỵ Tây Sơn” về hàng, cả loại nguỵ cuối cùng mới bỏ chạy như Lê Văn Phong làm Phó tổng trấn ở đấy, chắc với sự bao che của Lê Chất. Cuộc xâm lăng của người Pháp làm nổi bật các nhân vật Đàng Trong vốn nếu ở vào tình thế bình thường thì cũng chỉ là ông quan phục vụ quân quyền: Đó là trường hợp các nhân vật Quảng Nam như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu gắn liền với sự oanh liệt thê thảm của tỉnh thành Hà Nội. (Vai trò cao quý của họ rồi sẽ tăng lên với sự nâng cấp của địa điểm trở thành thủ phủ Đông Dương rồi thủ đô ngày nay.) Dấu vết Đàng Trong rơi rớt gần đây là họ Nguyễn Tường của người sáng lập Tự Lực Văn Đoàn, ngoại nội vốn gốc Huế, Quảng Nam. Minh Mạng làm việc “thống nhất” chi li cả đến việc bỏ váy mặc quần, tuy gặp phản ứng mỉa mai nhưng có đà thành công hơn Trịnh bắt dân Phú Xuân theo y phục Đàng Ngoài, không chấp nhận cải cách mặc quần của Nguyễn Phúc Khoát. Quan chức Trịnh Lê vào đầu ở Gia Định chỉ làm việc thư lại cho hợp với khả năng nho học của họ, cho nên danh sĩ Bắc Hà Nguyễn Viên đưa đơn từ chức vì không chịu làm quan trong một triều đình, theo ý ông là bát nháo đủ thứ hàng thần, không xứng đáng với danh tiết của ông gìn giữ bấy lâu.


Tất nhiên với thời gian thì các yếu tố mâu thuẫn cũng chuyển hoá theo hướng phức tạp hơn làm bào mòn khía cạnh địa phương như điều kiện phải có của cuộc sống thực tế. Tổ chức chính quyền theo ý thức Nho Giáo chuyên chính có phương tiện tiến thân bằng thi cử, đưa người “vùng văn học” Trịnh Lê có ưu thế đỗ đạt vào quyền bính mới tương đối nhiều, đã làm xoa dịu một phần nỗi “nhớ nước” của con cuốc ở (bắc) đèo Ngang. Một trung tâm văn hoá mới xuất hiện so kè với trung tâm cũ, huênh hoang với thành quả: “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán, thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường” mà không gọt giũa được mâu thuẫn thể hiện trong lời chê “con thuyền Nghệ An” và kết quả thảm thương của gia đình nhà họ “Thánh” (Quát). Cho nên tất cả cố gắng hợp nhất của tập đoàn cầm quyền ở Huế đã không đủ để xây dựng một nước tương đối ổn định loạn lạc. Và thế là người Pháp đến khoét sâu thêm phân hoá, vực dậy các nhóm phù Lê trong đó danh nghĩa cũ lại có thêm màu sắc tôn giáo mới.



TỪ THỦ PHỦ ĐÔNG DƯƠNG THUỘC PHÁP ĐẾN THỦ ĐÔ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ


Người Pháp đến đất Việt không phải chỉ một nhóm đơn lẻ như Lí Trần, không phải với hậu thuẫn cả một nước bên ngoài tuy sát bên cạnh nhưng đồng văn hoá như Minh, Thanh. Họ rõ ràng là đại diện cho một nền văn hoá mới, trong trào lưu chính của nhân loại – ít ra là như đang thấy tiến triển trước mắt từ vài trăm năm nay. Chính sự bám chặt vào “truyền thống” để chống đối của người Cộng sản, đã thành công, là nguyên cớ của sự lúng túng dùng dằng Đổi mới hiện nay, bởi vì họ phải đi vào con đường phủ nhận trước kia, khiến cho đầu não bảo thủ Hà Nội phải làm việc trì níu Sài Gòn bức phá tự phát có phần hỗn loạn. Cho nên sự thay đổi đối với Việt Nam của việc người Pháp chiếm đóng đất nước phải được kể là điều đảo lộn to lớn nhất từ hai ngàn năm qua. Sử gia Việt hiện đại với lòng yêu nước nhiệt thành, với sự căm ghét chế độ thực dân thường chỉ nhìn thời gian thuộc trị như một giai đoạn đen tối của đất nước, luôn luôn nhấn mạnh đến những cuộc kháng chiến Cần vương, khởi nghĩa, hào hùng trong thất bại rồi sẽ dẫn đến vinh quang của năm 1945. Với thời gian trôi qua, cởi bỏ được ý thức dằn vặt của quá khứ, sử gia sẽ nhận ra nước Việt hiện tại khác với nước Đại Nam của thế kỉ XIX là bắt đầu từ sự xâm lăng kia của người Pháp.

Bài vè của nhà nho nào ở Đông Kinh Nghĩa Thục kể khổ về các loại thuế, thuế, thuế... của người Pháp đặt ra, là nỗi luyến tiếc quá khứ nghĩ là đẹp đẽ của thời tưởng chỉ có hai loại thuế chính: đinh và điền thổ, mà không thấy ra những khổ nạn dân chúng phải chịu đựng chung quanh sự thực thi để triều đình xưa tồn tại mà cai trị. Người ta bỏ qua lời phân trần của tên “thực dân” nào đó về việc sử dụng tiền thuế: “Tây xây cầu Trường Tiền, Tây không đi một mình!” Nhà nho kia chưa nắm chính quyền vào thời sau để thấy thuế nông nghiệp chỉ thi hành mới một hai mùa là người dân phải dỡ cả nhà từ đường để thanh toán; không thấy thuế thương nghiệp ra đời là người phụ nữ mất cả gánh hàng chạy chợ, gánh hàng thường cho là từng nuôi sống chồng con có bảng vàng bia đá còn nằm ở các Văn miếu kia. Ông Chủ tịch của nước Việt-mới ham muốn chứng tỏ như người mở đầu thời đại (khai nguyên/nguơn), muốn bắt chước các bậc vương giả xưa mà thấy không được nên chỉ đành để lại trong di chúc ý nguyện “tha thuế” không mấy hi vọng đạt thành, không ngờ lại được đàn em gắng gượng thi hành qua quýt, cho hợp với huyền thoại tiếp tục trong việc phơi xác ông. Nắm chính quyền xong là người ta thấy Đại tá Ducouroy (và chính quyền thuộc địa Pháp) có lí khi sử dụng các trò thể thao điền kinh để người dân lãng quên nỗi bất mãn trút lên đầu các quan cai trị da trắng về nỗi cùng cực của họ, về sự mất nước đớn đau. Chỉ có khác là các danh tài trên ngựa sắt khoác áo mới trong vòng đua Thống nhất với danh nghĩa chính quyền của dân tộc, biện minh cho thành quả chiến thắng để làm đầy cái bụng gạo sạn, cơm “bo bo”, đã dìm đi con mắt sắc mắc của người theo dõi ống kính truyền hình, thấy trước khi đoàn xe đạp đến Bến Hải thì đồi núi còn xanh, qua đấy thì chỉ còn đá núi khô cằn, câm nín. Chính sách “chia để trị” có hiệu quả cũng không thể nào không bắt chước. Có sự đổi vùng của các cán bộ đấu tố trong Cải cách ruộng đất trong đó dân Liên khu V lạc loài, quê mùa, địa phương nhỏ dễ tuân lệnh Trung ương hơn đám Nam Bộ giàu có, kiêu kì, ngang bướng hơn. Ông Vũ Thư Hiên ở xa không phân biệt được tiếng nói từng vùng nên chỉ có thể xác định người chấp pháp hỏi cung ông là “dân Liên khu V”, nhưng người đọc có cảm giác người đó gốc Quảng Ngãi, Bình Định, và hiểu được tiếng đồn kinh khiếp là dân tập kết Bình Định chuyên làm mật vụ! Trong cách đối xử, nếu người Pháp gọi kẻ chống đối là “trộm cướp”, “Cộng sản” (như cậu công tử vườn bị kì mục ghét, vu cáo, sau 1945 làm chức sắc “cách mạng” theo chuyện ông Đông Tùng kể) thì chính quyền “nhân dân” cũng có các từ thay thế: “Việt gian”, “phản động” gán vào cho cả những địa chủ nhiệt thành đóng góp với Kháng chiến khi chưa thấy chính sách trở-mặt. Cứ lấy một quyển hồi kí ca tụng các thành quả tranh đấu hồi tiền-khởi-nghĩa chống đối những áp bức, cướp đoạt ruộng đất, hối lộ tham nhũng rồi thay thế các tên đốc phủ sứ, điền chủ, hương quản... ác ôn bằng các danh vị đồng chí giám đốc, bí thư, chủ tịch xã huyện tỉnh... thì ta sẽ có một hồi kí mới, tuy không được phép in ra phổ biến. Nếu có thể quan tâm đến vấn đề phân biệt “hiện tượng và bản chất” thì ở đây phải nói đến tác động của bản chất cầm quyền hơn là của màu da, địa phương.


Nỗi khổ nạn nhục nhằn thời thuộc trị cũng được cảm nhận sâu xa hơn, vào trước và sau thời độc lập vì những bằng cớ rõ rệt hơn nhờ kĩ thuật mới, đi theo với chi tiết thành văn nhiều hơn. Đọc sử thấy nói đến hình phạt “lên ngựa gỗ” có thể là dửng dưng, nghe nói đến “voi giầy ngựa xé” thì hoảng lên một chút với các lời tả của người giáo sĩ đương thời, nhưng thật phải chịu dằn xé tâm can, sục sôi căm thù khi nhìn các tấm ảnh từ phát minh Daguerre chụp cảnh gông cùm chồng chất, cảnh những cái đầu lâu lăn lóc trên báo chí, tuy có kèm theo chữ “pirates”. Các nghiên cứu của người Pháp nếu có nhắc đến những thảm cảnh thời Cựu trào thì cũng chỉ được coi là những lời bêu xấu, bôi nhọ. Ngay đến dân “chữ nghĩa” có lẽ cũng mới lưu ý đến chứng cớ của Chu Thuấn Thuỷ ngày 8-18 tháng 2 âl. (1657) ở Đàng Trong: “Trong khoảng 10 ngày, ngày nào cũng có người bị chém ở phía tây chỗ Du (Thuấn Thuỷ) cư ngụ. Người nào cũng trước hết bị chặt đầu, sau đó lấy xương thịt làm mắm (?). Gân, xương. ruột và bao tử vung vãi khắp nơi; quạ, diều hâu, chó lợn tranh nhau đến ăn. Máu nhuộm bùn cát, thịt người hoá thành mồi cho súc vật...” (Kí sự đến Việt Nam.., tr. 41). Về phía đất Lê, có thể nhắc lời Lê Thánh Tông đã dẫn: “Kẻ nào (dám chỉ trích thay đổi của nhà nước) là kẻ bề tôi phản nghịch, làm loạn phép nước, phải xử tử vứt xác ra chợ không thương xót, còn gia thuộc nó phải đày đi xa.” Về phần Nguyễn thì có thể nhắc dấu vết Mả Nguỵ và vụ xử lăng trì (xẻo thịt) cậu bé 6 tuổi, con Lê Văn Khôi. Cho nên phải công bình mà nhận rằng với các biện pháp hình sự kia, người Pháp chỉ sử dụng tập tục “truyền thống của dân tộc” với chút cải biên về sau là thay lưỡi gươm cù nhầy bằng cái máy chém phập xuống là xong. (Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân hẳn khó gặp người “chém treo ngành” của Nguyễn Tuân nên nghe đồn là phải cởi khăn bịt đầu để hối lộ người đao phủ làm sao cho “ngọt”!) Ngày nay, nhìn mố cầu Ma Thiên Lãnh dở dang mang huyền thoại tử thần của Côn Đảo, trông nó như của một bến sông chợ huyện nào đó, không thể ngăn nghĩ rằng cạnh sắc của đá có cứa đứt da tay chân cũng không thể nào làm cụt, què, tan xác như bom mìn ở các trại cải tạo tập cho một bộ phận dân Việt trở thành “người”.

Trong mục đích chiến đấu giành độc lập, những người lãnh đạo cần nối kết sự căm thù của bản thân họ đến tầng lớp quần chúng đông đảo, cho nên sự lan toả dồn dập của nhiệt tình khiến hình ảnh kẻ thù trở nên xấu xa hơn, còn bản thân dân tộc lại trở nên tốt đẹp, hào hùng hơn, kiểu “đối xử trong tình tự dân tộc, nghĩa đồng bào”, “đạo lí bao dung như trời biển”, “tha tù binh vì lòng nhân đạo”... (Quân sư Nguyễn Trãi trong một lúc đắc chí chỉ làm việc văn từ trầm bổng, vậy mà người sau cứ tưởng là thật, không nhớ lời đe doạ của Đặng Tiểu Bình trong cuộc lui quân 1979 khiến quân ta chỉ đánh “kẻ xông tới” để tự vệ chứ không dám rượt theo “kẻ bỏ đi”!) Sự nhiệt thành đã dẫn đến cả chuyện vặn vẹo từ lí: Câu “Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” rõ ràng là lời van xin cầu được sống của kẻ yếu thế, vậy mà lại được tán tụng là ý thức “đùm bọc nhau, đồng cam cộng khổ, chung lưng đấu cật xây dựng và giữ gìn quê cha đất tổ”. (Lịch sử Việt Nam tập I, tr. 26.) Văn chương lúc bình thường thấy là sáo rỗng trong trường hợp này trở thành gươm, thành thép trong sự huênh hoang từ lớp văn, sử thần mới, không giấu được nỗi nhát sợ của bản thân. Và che mất sự thực lịch sử. Đọc quyển Đại cương lịch sử Việt Nam của thiên niên kỉ mới, chỉ thấy dẫn Văn kiện Đảng, không một dòng nào nói đến “sạch bóng quân thù cũ”, “đấu tranh nội bộ”, “ước vọng mở mang cõi bờ”... Phải rẽ qua ông Vũ Thư Hiên mới thấy chuyện có quân Trung Quốc đóng ở Việt Nam, chuyện 60 ngàn quân đó có anh thanh niên Trần Khải Ca thi hành nghĩa vụ quân sự (trước khi trở thành đạo diễn nổi danh), hồi ấy cũng đã đăng trên báo ở Miền Nam mà người ta không tin! Với thời Mở cửa bất đắc dĩ mới lộ ra chuyện hục hặc, phe phái Hoàng Minh Chính “chống Đảng”, chống Anh Ba, người sẽ quay 180 độ để được đổi tên thành anh “Ba Ngồi” (bồi Nga), đuổi Hoàng Văn Hoan chạy trốn, và lo đương cự ở biên giới phía bắc. Thấy quân ta làm “nghĩa vụ quân sự” ở Kampuchia, người ta đâu có hiểu đó chỉ là thực hiện một bước của toan tính “giải phóng Thái Lan” được coi như một “tất yếu của lịch sử, là phần trách nhiệm của chúng ta” như lời ông Uỷ viên Trung ương Đảng Trần Quỳnh của Tổng bí thư Lê Duẩn, nói với đồng chí Đại biểu nhân dân lỡ đà Nguyễn Công Hoan năm 1976! (To Bear Any Burden, Al Santoli ed., New York 1986, tr. 287.)


Người Pháp bành trướng thế lực từ một thủ đô xa vời, không phải không gánh chịu những điều kiện của nơi đến, ít nhiều gì với thời gian cũng làm sửa đổi những ý định ban đầu của họ. Vượt biển đem quân từ xa đến thì các nước Miên, Lào trong nội địa phải chịu sự “bảo hộ” sau nước Việt Nam nhìn ra đại dương tiếp cận với tàu chiến. Đánh vào đầu não Huế không xong thì cũng với hải quân, Pháp có thể di chuyển vào Gia Định chiếm đóng vùng mà thế lực Huế yếu ớt như đã từng chứng tỏ trong cuộc loạn Lê Văn Khôi trước đó hơn hai mươi năm. Đất chiếm lúc đầu còn nhỏ, tương đối dễ dàng cho việc cai trị nên Nam Kì trở thành thuộc địa trong lúc Bắc, Trung Kì đông đúc, nhiều ràng buộc với chính quyền bản xứ, trở thành đất bảo hộ, như một thứ chính sách “ki mi” của tinh thần vương hoá Tây. Và cũng có chút gì như ngày xưa, tướng ngoài biên ải – không dám nói là không tuân lệnh vua, nhưng cũng tuỳ theo thực tế chiến trường xa xôi mà giải quyết vấn đề để trung ương phải luỵ theo – đoàn viễn chinh của Pháp cũng mở rộng thế lực có khi trái với những gì ồn ào trong nghị trường Paris. Chiếm An Nam không phải chỉ vì An Nam rừng vàng biển bạc mà chính vì thị trường Trung Quốc to lớn đang bị các nước Tây Phương xúm lại xâu xé khiến đế quốc Mĩ mới nổi cũng nóng ruột, đề nghị “chia đều” với thuyết Môn hộ khai phóng (Open Port). Sông Mekong không thể thông thương với Trung Quốc như đã được phái đoàn thám hiểm Doudart de Lagrée chứng thực thì Jean Dupuis lại cho biết có thể thay thế bằng sông Hồng, ngắn hơn. F. Garnier có mặt ở hai nơi là bằng chứng khác. Thế là cùng với tâm ý bành trướng thế lực, trọng tâm chuyển dịch quyền lợi của Pháp phải dời ra phía bắc. Hà Nội không phải chỉ thay thế Huế cũ kĩ mà còn tranh giành địa vị thủ phủ thuộc địa mới với Sài Gòn đang phát triển vào trào lưu giao thương quốc tế. Không thể coi việc đặt thủ phủ ở Hà Nội vì lẽ đó là trung tâm của văn minh Việt Nam – người Pháp không vì dân Việt mà quên mất quyền lợi của họ. Và sự tranh giành không phải không gây sóng gió giữa quyền bính địa phương: Suý phủ Sài Gòn, và trung ương Paris xa xôi, qua phủ Toàn quyền Hà Nội.


Nhưng trong khu vực của vùng Đông Dương thuộc Pháp – Đông Pháp, thì một thủ phủ cũng không giữ được thế tập trung chặt chẽ như một thủ đô. Đông Pháp có năm “xứ”: Ai Lao, Cao Miên, Trung Kì với Huế tất cả có vua nhưng với những tập họp dân chúng không có gì xa lạ hơn về quan niệm nguồn gốc, văn hoá; Nam Kì là thuộc địa có thể bầu được nghị viên (người Pháp) vào Quốc hội Paris; Bắc Kì là một thứ bảo hộ chặt chẽ hơn, lơ lửng, vướng víu với Huế như hồn ma của phủ Kinh lược đã bãi bỏ. Cho nên Hà Nội, thủ phủ của Đông Pháp, không có một sức thu hút ngưỡng vọng đối với dân chúng các miền khác, ngoài tính cách một nơi du học để tiến thân với các trường Đại học mở ra nơi ấy. Tất nhiên với quyền hành tập trung thì người Pháp có thể phân phối nhân viên đi khắp năm Xứ: Ông thông ngôn Trần Văn Thông ra Bắc làm Tổng đốc, mở hướng thông gia với họ Ngô về sau, ông thi sĩ nhà đoan Xuân Diệu vào Mĩ Tho, ông trắc địa viên Nguyễn Hiến Lê đi đo đất Đồng Tháp Mười, ông chủ báo Nam Phong vào Huế làm Thượng thư bộ Lại, ông công chức Việt nào đấy đã đẻ ra ông Tổng bí thư tương lai của đảng Nhân dân Cách Mạng Lào Cayxỏn Phomvihản... Tuy nhiên phần lớn thì người ta rút lui về cố thổ: Ông Diệp Văn Cương sau khi tung hoành ở Huế, lấy được hoàng nữ rồi cũng về đất Gia Định cho ông con làm kí giả, hội đồng, ông kĩ sư cầu cống Souphanouvong chìm lấp ở Vientiane cho đến ngày làm chủ tịch Pathet Lào, ông văn sĩ công chức toà án Nguyễn Tường Long có phải làm việc ở Đà Nẵng thì cũng về xứ Bắc, nơi tưởng là, vì đã trở thành, gốc gác của mình...


Sự kết hợp nên xứ Đông Pháp là do quyền lực của nước Pháp. Họ đã phân phối lại bản đồ của khu vực này: Xác định biên giới Việt Trung mù mờ, nhiều tranh chấp trong quá khứ; lấy lại các phần đất Miên, Lào đã mất vào tay người Thái; xén cắt điều chỉnh biên giới Việt Miên Lào trên những vùng mà sự tràn lấn của nhà Nguyễn còn chưa có tính chất quyết định, do đó đem được cả vùng Tây Nguyên trù phú (đã thấy mặt người Xiêm) trong tình hình phát triển mới (cây công nghiệp) vào đất Trung Kì, nghĩa là của Việt Nam. Bởi vì, xét về mặt căn bản của thời tiền thuộc địa thì tuy Đông Pháp có năm Xứ năm thể chế rối rắm như đã nói nhưng thật ra vẫn chỉ là của ba nước cũ: Việt, Miên, Lào trong đó rõ ràng là ưu thế Việt vẫn còn. Cho nên công chức Việt, theo đó, thường dân Việt qua Lào, Miên làm việc, sinh sống dưới sự bảo trợ của người Pháp. Cả đến tôn giáo, đạo Cao Đài, thật ra chưa có văn bản pháp luật nào công nhận vậy mà vẫn truyền qua xứ Chùa Tháp tuy có gây rối loạn động chạm đến uy lực hoàng gia Miên nhưng những người này vẫn không thể ngăn cấm được chỉ vì chức sắc Cao Đài là dân thuộc địa Nam Kì, là “con dân Pháp” (sujet francais!) Thực thể Đông Pháp là như thế, có ảnh hưởng ngay đến cả những người tranh đấu độc lập cho Việt Nam (Lí Đông A, Trương Tử Anh, đảng Cộng Sản Đông Dương). Dưới mắt họ, Đông Dương / Đông Pháp là một, tuy có lúc được phân định né tránh bằng khẩu hiệu “chống kẻ thù chung” nhưng ưu thế Việt vẫn rõ ràng trong thực lực điều hành, trong tinh thần kẻ cả của lãnh tụ Việt. Điều đó càng thể hiện trong thời chiến tranh hậu thuộc địa với các chi nhánh chiến thuật tách ra làm ba, từ đảng Cộng Sản Đông Dương cũ: Quân Việt đánh giùm cho Pathet Lào, cho Issarak Miên thời chống Pháp, quân Miền Bắc đem xe tăng vào tận Ba biên giới (Miên, Trung, Nam Kì), phục kích lấn chiếm ở Nam Lào... trong cuộc chiến 55-75. Người Khmer phản ứng lại bằng sự chiếm quyền lãnh đạo đảng Cộng Sản của họ trong tay bộ phận thân Việt Nam, giết Sơn Ngọc Minh là một việc. (“Chính phủ Sơn Ngọc Minh của chúng ta” là tên một tập sách nhỏ được phát hành sau hiệp định ở Genève, nơi người ta đã loại bỏ Issarak mà chỉ công nhận Sihanouk. Họ Sơn chứng tỏ ông này là một dân Khmer Krom, của Nam Bộ, theo một họ của Minh Mạng ban cho.) Cho nên việc chạy chết (tự tử?) của Pol Pot và việc chiếm đóng xứ Cambodge của quân Việt Nam làm “nghĩa vụ quốc tế” nơi ấy cũng có thể coi là cái đuôi gần gũi của công trình xây dựng xứ Đông Pháp của người Pháp từ một thế kỉ trước.

Một hướng tập trung quyền lực như thế cũng có tác động đến tập thể người Việt, sâu xa hơn vì tác động trên phần lãnh thổ có một đa số cùng tiếng nói, văn hoá, dưới những chính quyền được sử sách dạy là có tính liên tục sâu vào trong tận thời thượng cổ. Tất nhiên là ý thức đồng nhất ấy không phải có từ lúc khởi đầu “dựng nước”, và bao trùm liên tục như trong câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Câu nói ấy thật có tầm vóc về mặt chính trị như đã thấy nhưng mang tính cách bao chiếm, cưỡng từ đoạt lí như sẽ thể hiện trong khi thi hành quyền lực. (Nhưng nói cho cùng thì chính trị nào lại không mang tính cách soán đoạt, cưỡng bức?) Chữ “dân tộc” dùng ở trên mang tính cách lập lờ, sử dụng cho cách hiểu (đôi lúc có xuê xoa mở rộng) về một thứ chủng tộc đa số, ở đây là “người Kinh” như ngày nay thường gọi, nhưng trong ngôn từ theo chính thể truyền thống thì đó là tập họp dân sống ở, giống như, hướng về kinh đô, rồi bao chiếm thành ra “dân tộc”. Ngày xưa, khi “nước” chưa chia làm “đạo”, “lộ”, sử thần Ngô Sĩ Liên vẫn cho rằng khi ông Đinh Bộ Lĩnh từ động Hoa Lư (ít lâu sau sẽ thành kinh đô) dẫn quân ra bắc, đánh thắng thì “dân Kinh lộ (Thăng Long thời ông sử thần còn nhớ) đều theo về”. Một ngàn năm sau, khi kinh đô dời đổi thì người ta lại truyền tụng: “Ăn Bắc, mặc Kinh (Huế)”. Và chữ “Kinh” hiện tại là từ Hà Nội, thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà / Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, vướng víu trong tiềm thức từ chữ kinh đô “phong kiến” xưa. Vị thế Hà Nội hiện tại chính là tiếp tục vai trò của thủ phủ xứ Đông Pháp trở lại thu hẹp trong khuôn khổ Việt Nam của Nguyễn.


Người ta dễ nổi giận gán cho ý nghĩ liên hệ này là của những người có đầu óc theo Tây, muốn kể công ơn của Mẫu quốc, chia rẽ dân tộc. Sự phản đối bắt nguồn từ một tâm tính rất bình thường của con người: không nhận ra cái gì khác với những gì đang có trước mắt, theo những định kiến đã thành hình, trong đó có chen vào, lúc nào cũng có chen vào những định kiến địa phương, phe phía. Ví dụ, người ta bảo rằng Hà Nội xứng đáng là thủ đô của một nước văn minh, tiên tiến (!?) vì đó là đất ngàn năm văn vật, là trọng điểm của nơi phát tích của dân Việt, của nền văn minh sông Hồng, văn hoá Thăng Long rực rỡ gì đấy. Chẳng ai nhắc tới rằng Thăng Long là tên mới của thủ phủ Đô hộ cũ, nơi chọn lựa của chính quyền phương Bắc, dò dẫm theo sự phát triển thuộc địa mà từ Liên Lâu, Long Biên chật hẹp chuyển về Tống Bình / Đại La “ở giữa khu vực trời đất... chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương”, những ưu thế không phải phát hiện bởi Lí Thái Tổ trong Chiếu dời đô. Kinh đô là nơi tập trung sức mạnh của một chính quyền lan toả khả năng cai trị của mình trên vùng đất chiếm được. Kinh đô đó thường là nơi quê hương phát tích khi tập đoàn cai trị chỉ có thể dựa vào chính sức mạnh của mình (như Hoa Lư, và Thăng Long một chừng mực), có lúc lại là nơi họ đã cộng sức mạnh của mình khai thác thêm trên công trình của chủ cũ để đủ tự tín xây dựng chính quyền nơi mới đó, như Thăng Long, Đông Đô, Đông Kinh trên nền tảng Đại La cũ. Vì thế, với họ Nguyễn, thì kinh đô là Huế chứ không phải Hà Nội. (Còn nếu bảo rằng đó là sự chọn lựa của một chính quyền “phong kiến thời tan rã, bán nước” thì không còn gì để bàn cãi.)

Nhìn về phương Bắc (không phải để tìm sự theo đuôi nô lệ, mà để thấy hướng tiến triển tương quan trongï tương đồng văn hoá), nhìn về phương Bắc thì thấy rằng kinh đô của nước Trung Hoa hiện nay cũng không bắt buộc phải nằm trong vùng phát tích của dân tộc Hán. Bắc Kinh vốn chỉ là vùng kinh đô của nước Yên mà nhà Chu phong cho Thiệu Công, là một thứ Nam Đô (Liêu 936), Trung Đô (Kim 1153) của các tộc ngoại di mon men vào khu vực của người Hán, và đã chiếm được để thành lập triều đại, đặt ở đó một trong 5 kinh đô toàn đế quốc cho gần hoang mạc quen thuộc của mình. Nhà Nguyên của Mông Cổ xây dựng thành Đại Đô (1263). Chu Nguyên Chương khai sáng nhà Minh đặt đô ở Nam Kinh trên vùng Trường Giang là gần nơi phát tích, xoá tên kinh đô kẻ nghịch, gọi lại là Bắc Bình (giống như Nguyễn Ánh đổi Quy Nhơn thành Bình Định), nhưng ông Minh Thành Tổ được phong là Yên Vương, chiếm ngôi của cháu tất nhiên không thể đóng đô trong hang ổ kẻ thù mà phải trở về đất phong, nên xây dựng thêm Đại Đô của Mông Cổ cũ thành Bắc Kinh. Thế rồi tiếp nối là triều Thanh của Mãn Châu, sau thời gian Nam Kinh, Thành Đô lêu bêu theo Tưởng Giới Thạch, kinh đô lại trở về Bắc Kinh vì là của người chiến thắng cuối cùng từ hoang mạc, với Mao Trạch Đông đi tiếp nối thiên mệnh trong tay nhà Thanh từ Diên An gần đó, Diên An hào hùng trong sách vở sau cuộc chạy chết Vạn lí trường chinh.


Vậy thì Hà Nội, thủ phủ Đông Pháp, trở thành thủ đô Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng là điều tự nhiên. Càng có thể gọi là tự nhiên hơn nữa, khi với Thế chiến II, thế lực người Pháp ở Đông Dương tàn rụi trong lúc nước đồng văn phương Bắc của Việt Nam trỗi dậy. Tưởng hay Mao gì cầm quyền thì căn cứ kháng chiến có cơ hội thành công nhất cũng là dựa vào vùng biên khu lỏng lẻo kiểm soát, giáp với nước lớn đối kháng văn hoá với kẻ xâm lăng. Huống chi lại là Mao, với sự đồng tin tưởng cuồng nhiệt về một chủ nghĩa chưa thấy mùi thất bại, mang một tinh thần bao dung của Thiên tử mới, sẵn sàng cho đàn em đón nhận mọi vinh quang, giấu kín bàn tay của mình chen vào. Thủ phủ Đông Pháp có sẵn cơ cấu tổ chức của một thủ đô thời đại văn minh mới, nên Hà Nội cử người đại diện vào Huế nhận đầu hàng của chính quyền bản xứ cũ. Chính từ trong sự chuyển dịch này mà ta thấy tính “truyền thống” trở về, báo hiệu cho những diễn tiến tiếp theo – tất nhiên là không khỏi mang những màu sắc mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo lời kể trong ngạc nhiên của Nguyễn Hữu Đang, đã rút cây bảo kiếm truyền quốc mà thét lên, đòi dùng để chém những tên phản dân hại nước. (Nhiều tác giả, Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam, Huế 2002, tr. 22.) Trong ý thức của viên Tân Chủ tịch này, ông đã hiểu rằng, thiên mệnh (qua ấn, kiếm) nay đã trao vào tay ông để cai trị dân nước. Và với ý thức thiên mệnh Đông phương ẩn tàng đó, ông cũng có thể xưng là “Cha già dân tộc”, như “Quốc phụ” Tôn Trung Sơn của Trung Hoa mới. Cũng hiểu theo cách đó thì Long mạch từ nay đã chuyển từ Huế về Hà Nội. Những lời tán tụng về sau chỉ là lối nói mới tiếp theo ý niệm cũ bàng bạc trong sự dời đổi kia mà thôi.

Nhưng những người cầm quyền mới không chỉ thụ động mà đã chen ý thức của mình vào sự đổi thay tập thể mình muốn lãnh đạo. Không phải người Pháp đã là nguyên nhân cốt cán của sự chia rẽ khi phân ra ba Kì với dụng ý “chia để trị”. Sự khác biệt lịch sử đã có với yếu tố địa lí, lịch sử qua sự thống nhất của nhà Nguyễn. Họ cũng cố tạo sự đồng nhất để dễ cai trị bằng một quyền hành xuyên suốt, dựa cả vào một quan niệm triết lí bao quát là ngũ hành để chia nước ra làm Ngũ kì: Nam, Bắc ở hai đầu cùng tột, Tả, Hữu ở sát Kinh Kì. Cho đến khi người Pháp ghép lại phần ở giữa thành Trung Kì thì hai đầu còn nguyên danh xưng cũ, không bao hàm một ý nghĩa kì thị nào cả, vì “kì” chỉ là “đất”, “xứ” mà thôi. Sự kì thị có nguyên nhân chính là từ bên trong. Đến người ngoại quốc như ông K.W. Taylor mà còn biết đến sự mỉa mai địa phương, riêng một vùng của Trung Kì, trong câu: “Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co, Bình Định hay lo, Thừa Thiên ních hết”. Huống chi là chuyện giữa ba Kì. Gia đình Nguyễn Tường đã kể chuyện ông Hoàng Đạo chê gái Huế, đòi “Ta về ta tắm ao ta” (không biết mình gốc Quảng Nam). Ông Phan Khôi mang tính “hay cãi”, thêm chút rơi rớt của con nhà nho ưa “chính danh” nên chê các người danh vọng đất Sài Gòn viết sai chính tả tên của họ, và được mắng: “Dân ăn nhờ mà còn lớn lối!” Người Pháp điều động ông tham tá Nguyễn Tường Long vào làm việc ở Đà Nẵng, không ngăn cấm ông Phan Khôi vào viết báo ở Sài Gòn, vậy thì các sự kiện có tính cách kì thị kia không phải do thực dân gây ra. Ngay chính các người Cộng sản Việt lúc đầu cũng không đồng ý với nhau trong một cuộc hội nghị và rã đám về Xứ của mình để thành lập các đảng với danh hiệu riêng: Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Liên Đoàn. Sự hợp nhất thành Đông Dương Cộng Sản Đảng là công trình của Đệ tam Quốc tế nhắm vào thực thể Đông Pháp, nhưng cũng chính từ ý thức quốc tế trong phong trào mà các khía cạnh địa phương được bào mòn, gọt đẽo tính chất riêng tư để rồi với cuộc chiến giành độc lập, tính chất đồng nhất dân tộc được nổi bật lên. Chúng ta phải nhận ra cái ưu điểm này khi nhìn thấy Tân Việt Cách Mạng Đảng vươn ra một chút ở hai đầu, còn thì chỉ loanh quanh nhiều ở Trung Kì, các đảng Đại Việt thì như sự hồi cố của tên gọi lại chỉ phát triển mạnh trong vòng xứ Bắc Kì, trong khi Việt Nam Quốc Dân Đảng mở rộng từ cái tên ảnh hưởng của Trung Hoa mới nên lan xuống tận phía nam nhưng cũng chỉ với vài chi bộ ở Sài Gòn.


Thế mà “rớp” cũ vẫn còn. Thời kì trung ương còn lẩn trốn trong rừng núi Việt Bắc, người ta đã loại cải lương ra khỏi danh nghĩa nghệ thuật dân tộc; và ý thức căm ghét triều Nguyễn đến tận cùng xương cốt không phải đã thiếu mầm mống kì thị địa phương vì “mất” Thăng Long. (Chuyện ngược đời mang tính chiếm đoạt ”vương quyền” rơi rớt ẩn tàng, là sau 1975, người ta chia hai phần đất nước thì để “Phía Bắc” bao gồm cả Huế – kinh đô cũ, khiến cho dân Thừa Thiên đi vào ĐàNẵng cứ tưởng như mình vừa lạc qua nước khác, văn minh, dễ thở hơn!) Nhưng điều đó cũng không tránh khỏi cho lăng tẩm đền đài của Huế biến thành nhà kho, trụ sở xí nghiệp, các đường phía Nam mất hẳn tên vua chúa Nguyễn, tên các văn thần võ tướng của Nguyễn Ánh, để thay thế Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt, Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức... bằng Điện Biên Phủ, Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Trãi... tràn ngập danh vị Trung ương. Người ta xoá tên Đô đốc Long trong lịch sử để bắt học trò nhớ tên Đô đốc Đặng Tiến Đông của đất Thăng Long hào hùng phụ hoạ hay tan chạy trước quân Thanh. Việc UNESCO công nhận Cố đô Huế là Di sản văn hoá thế giới một cách muộn màng là vì chính quyền thống nhất, theo thói quen “bán kèm” XHCN, đã ghép Huế có đầy đủ hồ sơ với Vườn Quốc gia Cúc Phương, di tích Hương Sơn, Đinh Lê, vịnh Hạ Long... giấy tờ bộp chộp gấp gáp. Rớp cũ phức tạp hơn, là vào thời VNCH có nhóm di cư kiêu ngạo với thành phần Công giáo chủ chốt được rải thành những vòng đai đồng tâm bảo vệ thủ đô mới, trong đó tiểu thuyết Trăng nước Đồng Nai của Nguyễn Hoạt tuy như một thể hiện dàn hoà, cầu thân, nhưng không có vẻ chịu đựng như của Ammy Tan trên đất Mĩ nên vẫn gặp sự phản kháng của nhóm Liên trường...

Vậy thì nguyên cớ thành công của người Cộng sản Việt tuy khá phức tạp nhưng trong đó không phải không bắt nguồn từ sự hiện diện của người Pháp với thủ phủ Hà Nội làm đà cho thủ đô của chính quyền hậu thuộc địa, và vẫn còn vướng víu từ đó. Với cao trào giải phóng giành độc lập, các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh đến các yếu tố bản xứ, rồi lại cũng như những quá đà khác, lại coi nhẹ các yếu tố ngoại lai, các lực lượng ngoại quốc. Cùng là những người tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam nhưng những người “quốc gia” chỉ có thể tìm khả năng ở các hoạt động hội kín quen thuộc với sự yểm trợ của khung cảnh Á Đông hạn hẹp trong quá khứ. Trong lúc đó người cộng sản phát triển tính chất Việt của mình, mở rộng ưu thế hội kín trong một khuôn khổ tổ chức cách mạng quấy đảo khoa học mang tính toàn cầu, tác động đến ngay cả ở trung tâm cai trị Paris mà họ phản kháng. Tính chất Việt lại phát triển theo với đà thành công của đảng Cộng Sản Trung Quốc, mang đến không phải chỉ sự yểm trợ tinh thần, gián tiếp mà là cả lí thuyết chính trị (“tư tưởng Mao Trạch Đông”), cả lực lượng tổ chức điều hành xã hội (cố vấn cải cách ruộng đất, chế độ hộ khẩu, ảnh hưởng đậm nhạt của các biến động từ phương Bắc: chính sách Trăm hoa đua nở, phong trào Hồng Vệ Binh...), hành động quân sự (chỉnh huấn quân đội, tham gia chiến trường, du nhập mẫu hình “anh hùng lấp lỗ châu mai” mượn từ chuyện người lính Hồng quân chống Quốc Dân Đảng, ngay nguyên gốc cũng có thể chỉ là lối phù phép tuyên truyền trên một phần có thật như chuyện người lính bị pháo đè trở thành “anh hùng lấy thân chèn pháo”!) Lại còn quân khí, lương thực (kể ơn sau 1975: giúp cả rau muống!)... W. Burchett trong La seconde résistance, khi ca tụng tổ chức tiếp tế thần tình của Mặt trận Giải phóng, lúc thấy người giao liên biết chỗ nào quơ được con gà cột sẵn chờ đãi khách, đã không còn sống đến đầu thế kỉ XXI để nghe lời thú nhận là có “chuyên gia nước bạn” vào tận chiến khu Miền Nam nghiên cứu các nhu cầu, nắm tình hình để sắp xếp việc tiếp tế cho có hiệu quả. Và ông cũng không vào trại cải tạo sau 1975 để cùng ăn thịt gà với gạo “Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc đại mễ” ẩm mốc, sâu mọt trong các kho chồng chất giữa rừng – những “hạt gạo cắn làm tư” chia cho Nam, Bắc, Miên, Lào đó hẳn không phải là gặt hái từ các “cánh đồng Năm tấn” ở Thái Bình chẳng hạn. Trong đà nhiệt thành vì lí tưởng quốc tế lẫn quốc gia, người cộng sản Việt đưa dần mình vào vòng vương hoá mới mà không giấu được tính cách khờ khạo thần phục tự nhiên xưa đối với Thiên triều cũ. Một thứ Hội chứng phiên thuộc ngàn năm vẫn còn đó, luồn cả vào trong sự căm ghét đế quốc thực dân. Cho đến khi bị chạm đến sự tồn vong của tập thể, lại cũng như xưa kia.


Chiến tranh giằng dai cũng có nguyên nhân lịch sử của nó. Nguyên nhân xa là trường hợp vĩ tuyến 17 không phải bỗng dưng mà gần với sông Gianh. Từ sự giao tiếp rộng mở của Đàng Trong tiếp nối với sự chiếm đóng Nam Kì của Pháp dẫn đến sự cách biệt mà người Pháp tưởng rằng có thể giữ một phần đất trong vòng ảnh hưởng của mình (theo với cựu kinh Huế của ông Bảo Đại mà họ bảo trợ) – và người Mĩ tưởng rằng sẽ cứu thoát khỏi ảnh hưởng cộng sản, và người quốc gia tưởng còn một chỗ dung thân. Nhưng tính chất Tây phương cũng lại là nguyên cớ chính của sự sụp đổ ở nơi này. Thủ đô của Việt Nam Cộng hoà không phải ở Huế mà là ở Sài Gòn, thủ phủ thuộc địa Nam Kì cũ, nghĩa là trong vòng tay của quan Tây vắng bóng mà phố Catinat đổi tên, vẫn còn kia. Người Đại Hàn / Triều Tiên căm ghét người Nhật nhưng cung cách ứng xử trong hiện tại rõ ràng là từ chủ nhân cũ. Người Pháp ra đi, để lại một Sài Gòn Miền Nam quen đánh giấc la-siết, một nền hành chính phức tạp chòng chéo các nguyên tắc phân quyền tuy không được rộng rãi như ở chính gốc nhưng cũng đủ lơi lỏng để các sức phản kháng tồn tại và khoét sâu phân hoá. Người Mĩ trong nhu cầu chận đứng Cộng sản quốc tế, phải biện minh cho hành động vì “Thế giới tự do” của mình , nên thúc đẩy thêm tính chất dân chủ tư sản lạc loài, rốt lại chỉ làm tình thế rối ren thêm.

Mở rộng một nhận xét về Trung Quốc của J. K. Fairbank để nhìn lại Việt Nam: Tưởng Giới Thạch với một tổ chức phong kiến quân phiệt ở địa phương, thôn quê, lại để phát triển ở thành phố các tổ chức của thời mới theo hướng liên kết với thế giới tư bản, mở ra những dư luận, phe nhóm, phong trào phản đối mà bản thân Quốc Dân Đảng của ông không kiểm soát nổi. Sự yếu ớt của chính quyền Miền Nam dẫn đến các tranh chấp quyền lực, coi thường quyền lực (sinh viên “quậy”, kí giả biểu tình ăn mày đòi tự do báo chí...) dẫn đến sự đổi dời phe phía dễ dàng, với các âm mưu hướng về phía mạnh để làm bản thân nổi bật trong tranh chấp, không phải chỉ “bắt cá hai tay” mà còn có thể cả trường hợp tam tứ trùng kiểu Phạm Ngọc Thảo. Cho nên các phong trào tranh đấu thời 1960, 70 là sản phẩm của Miền Nam, không thể nào xuất hiện ở Miền Bắc, không phải giản dị là do Miền Bắc xúi giục. Các nhà sư tự thiêu lẻ tẻ đủ làm lật đổ cả một chính quyền trong khi cả chùa ở Cần Thơ đốt chết sau 4-1975 không hề được ai ở xa, ngay trong nước biết tới. Các lãnh tụ biểu diễn vòng ngoài của Mặt trận Giải Phóng (Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa), hay nhóm liên kết sau 1968 (Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết, Lê Văn Hảo) đều xuất thân từ trường Pháp thuộc địa hay chính gốc. Hồi kí của “Việt cộng” Trương Như Tảng (A Vietcong Memoir, Harcourt Brace Jovanovich 1985) cho thấy tính chất hời hợt của một tay trí thức tư sản “trường Tây” làm cách mạng tài tử, được đưa đẩy vào dòng chính của phe chiến thắng mà vẫn như kẻ bên lề, không nhận ra được tầng sâu của lớp người mình sẽ quay lưng bỏ chạy sau khi hợp tác. Ông Nguyễn Hữu Thọ công khai đòi hoà bình ở Sài Gòn không xong, được đánh tháo làm Chủ tịch Mặt trận Giải phóng, lúc thành công làm Phó Chủ tịch nước thống nhất, vậy mà phải đợi khi (có lệnh) Đổi mới mới dám thú nhận mình đã làm Chủ tịch một Quốc hội bù nhìn – chậm hơn ông Nguyễn Công Hoan, cựu dân biểu (Phú Yên) đối lập Sài Gòn, nhờ móc nối, có “công” cướp chính quyền Mĩ Tho (tin của Tin sáng) nên được làm đại biểu nhân dân của Quốc hội mới, để rồi chợt nhận ra rằng mình chỉ có quyền vỗ tay “nhất trí”, nên lại bỏ chạy làm thuyền nhân phản bội Tổ quốc. Ông Trịnh Đình Thảo có thể sung sướng khi được Bác biết rằng mình hiên ngang đặt một tên đường Hồ Chí Minh trong trang trại riêng ở Gò Vắp (lại lên tiếng nịnh bợ sau 1975) trong khi ông Trần Đức Thảo cuối đời qua đến Pháp còn không dám bàn đến chính trị vì kinh nghiệm lỡ dại nho nhoe hồi Nhân văn giai phẩm. Ông Vũ Hạnh được bạn bè quen biết cứu dù biết rõ ông theo Cộng, ông ở tù VNCH vì mơ màng “mùa xuân trên đỉnh non cao”, đến lúc nghe các bạn cũ ở Sài Gòn (cứ tưởng như xưa) nhờ can thiệp cho các văn nghệ sĩ “hồ Con Rùa” bị bắt, đã trả lời (đại khái): “Bây giờ khó lắm, không được đâu...” Có rất nhiều dẫn chứng về sự thay đổi của những người sống hai bên bản lề của thời đại, chế độ như trước sau 4-1975 để thấy một thời say đắm nhiệt tình kể cả nghênh ngang khoác lác, và một thời co rúm nịnh bợ hay ẩn nhẫn thu mình nhục nhã... Đối với những người này, không phải chỉ có sợ mà còn là khiếp, khiếp đảm, sợ đến mất mật. Tập Ghi của Trần Dần đã đem lại thất vọng cho những người quen lối nhìn thần tượng, nhưng là phản ảnh trung thực đáng thông cảm của hoàn cảnh thực tế phải sống từ những người trong cuộc.


Cũng tương tự về mặt căn bản văn hoá, các sinh viên tranh đấu trước 75 chính là sản phẩm của VNCH. Họ không phải ở tầng lớp “san bằng”, được gọi là “học sinh Đại học” như ở Miền Bắc. Họ là “sinh viên”, tầng lớp vẫn được sự nể trọng của xã hội, theo với sự phát triển của đất nước, đã trở thành số đông, lại được bồi đắp bằng mớ kiến thức của các giáo sư từ Tây Âu, nhất là Pháp, với quan niệm trí thức hướng dẫn lịch sử, định đưa triết học vào đời sống – mà thật ra chỉ quanh quẩn ở các giảng đường. Họ trộn chung cái kiêu ngạo của cả thầy lẫn trò để mong làm người cứu nước, xoay đổi thời thế, đi tìm lí tưởng được vẽ ra thật hào hùng mà rốt lại thấy chỉ như một trò chơi đâm lao theo lao về phía quyền lực nào mạnh hơn. Từ sự chọn lựa nhiệt thành trong ngây thơ, đúng trong mơ tưởng mà thấy sai muộn màng trong thực tế, họ đã phải chịu sự căm ghét từ phía họ rời bỏ, chấp nhận sự rẻ rúng bòn đãi phía họ dấn thân, còn lại chỉ là sự hãnh diện riêng với nhau. Trong tính cách cá nhân, chính họ mới là những người can đảm bởi phải lãnh đòn vọt tù đày chứ không phải như đồng trang lứa với họ, xuất thân từ Miền Bắc, chỉ làm mỗi một công việc là ngoan ngoãn tuân lệnh, núp dưới ngôn từ đại nghĩa, lí tưởng được các văn thần mới cao rao tụng niệm. Người dân Miền Nam bình thường, sống trong khung cảnh khác nên phiền trách người di cư: “Sao ở ngoải độc lập rồi còn dô đây làm chi?” Ở một vị trí đường đất gần hơn xứ Bắc mà nhà văn Võ Phiến cũng không thể thuyết phục ông cha và người em (“nhà văn” Lê Vĩnh Hoà) sống ở Nam Bộ tin vào những điều ông đã trải qua. Họ còn choáng ngợp trong hào quang “Chín năm”, bận tâm với những đe doạ trước mắt cho bản thân, nên không thể tưởng tượng ra một tình thế họ chưa sống, với cuộc sống mang màu sắc cùng cực, đậm nét hơn cả loại hình mà ông cha họ đã xa rời từ lâu. Cả một tình thế dồn dập phức tạp khiến phát sinh huyền thoại gần như không suy suyển về VNDCCH ngay khi nó còn sống, trong lúc VNCH trần trụi phơi bày, chỉ hưởng được chút huyền thoại khi nó đã chết đi – có thể nói là, chủ yếu vì nó đã chết đi – huyền thoại từ sự nuối tiếc của người trong cuộc, và từ sự thương hại của người ngoại quốc khi nhận ra một chút bất công của mình lúc đối chiếu với hành động của những người chiến thắng mà họ đã không tiếc lời tâng bốc xưa kia. Sự nhục nhã từ cái sợ được che lấp trong lí tưởng rao giảng, cho đến khi chỉ còn có hành động vì lí tưởng ước mơ, như trong một cơn lên đồng tập thể. Do đó, có thể nói phần lớn mọi người đã góp phần vào sự thống nhất đất nước trong tiếng kêu gọi tràn trề tình cảm dân tộc, quốc tế từ thủ đô Hà Nội, sự nhiệt thành càng dâng cao khi ưu thế chiến cuộc càng nghiêng về phía Bắc. Điều đó, có lúc, có người, cho đến bây giờ, tưởng như là điều tự nhiên, của đạo lí, không phải bàn cãi.



NAM TIẾN VÀ CHXHCN VIỆT NAM


Sử sách Việt nói đến một ông tổ Hùng Vương nhưng không hề có chữ “nam tiến”. Đối với các vương triều, về phương diện lãnh thổ, chỉ có Nam và Bắc: Đại Việt và Trung Hoa. Chỉ nơi phần đất li khai của chúa Nguyễn mới có từ Nam triều và Bắc triều, vạch ra phần đất của họ đối kháng với Trịnh Lê mà thôi. Trong trường hợp này giống như họ đã kế tục các vương triều Chiêm Thành: Bà Chúa Xứ xưng là “tinh của đại địa Nam Quốc”, Trà Toàn tự phụ là “Hoàng đế Nam Quốc ”. Nhưng Trịnh Lê lại không công nhận nhóm li khai là “triều đại”. Với Lí, Trần, Hồ, Lê, Mạc chỉ có Đông, vùng chung quanh Thăng Long, và Tây, vùng phía nam đó. Cho nên mới có Đông Đô/Kinh và Tây Đô/Kinh, Đông Việt và Tây Việt như đã thấy. Một viên quan can Trần Duệ Tông đánh Chiêm Thành, cho rằng “chúng ở phía tây xa xôi” không đáng để chinh phục. Hồ Quý Li bắt được một tướng Chàm về hàng, ban tên là Kim Trung Liệt; Lê Thánh Tông bắt tù binh Chàm cho về ở một nơi gọi là Kim Ổ. “Kim” là phương tây trong bát quái. Khi Trịnh Kiểm xin lệnh vua Lê cho Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá với một công tác là “để phòng giặc phía đông”, tức đúng là để phòng quân Mạc chứ không phải chỉ là phỏng đoán về dư đảng họ Mạc, hay giản dị là ngăn “người Nhật vào thời gian đó đã đạt tới đỉnh điểm dọc theo bờ biển Trung Quốc”. (K.W. Taylor, bản dịch: “Nguyễn Hoàng và bước đầu cuộc Nam tiến của người Việt” trong Những vấn đề lịch sử Việt Nam, đã dẫn, tr. 163.)

Không phải người xưa không biết phân biệt đông tây nam bắc, họ đã vẽ bản đồ, chỉ khác một điều là hướng nam, hướng chính, nằm ở bên trên mang ý nghĩa Thiên tử ngồi ở phía bắc quán xuyến trông coi cai trị thần dân. Hướng nhìn đó đã đổi, chi li chính xác hơn, với kiến thức mới, trong các bản đồ ngay từ đầu óc trẻ thơ, ví dụ ở quyển Địa dư giáo khoa thư. Thế là Trung Kì, Nam Kì, theo đó Chiêm Thành, Cao Miên nằm ở phía nam Bắc Kì chứ không ở phía tây nữa. Chữ Nam tiến lại chỉ xuất hiện mạnh mẽ từ sau 1945, với bài hát Nam tiến mơ hồ lãng mạn (Lưu Hữu Phước) của nhóm sinh viên Nam Kì bỏ học về Nam, rồi hùng hổ dồn dập theo chiến tranh với những đoàn quân Nam tiến, nối tiếp ông tổ Hùng Vương làm nên sự thống nhất của thời hiện đại, bắt đầu từ vị trí thủ đô Hà Nội. Và không thể coi từ Tây tiến đến Nam tiến chỉ là sự điều chỉnh danh từ. Trong tâm ý cũ, phía tây là rừng thiêng nước độc, là sự ngại ngùng e sợ. Sự phân biệt có định kiến đó đã lòn vào trong sự phân biệt “trong” và “ngoài”: trong rừng núi âm u tối tăm và ngoài đồng nội rộng rãi thênh thang. Danh xưng hai vùng Đàng Trong và Đàng Ngoài xuất phát từ thành kiến đó. Cho nên, ý niệm Nam tiến khi thay thế ý Tây tiến đã như một sự giải phóng trí óc to lớn. Tây tiến là khó khăn, gây sợ hãi, ngại ngùng (mới đây, còn đó: Tây tiến người đi không mọc tóc) trong khi Nam tiến lại được coi là một nhiệm vụ lịch sử, tự nhiên, suôn sẻ, hợp đạo lí, không thể chối cãi. La Marche vers le Sud, The March to the South của học giả Âu Mĩ diễn dịch bắt chước theo, lột tả được rầm rập bước quân hành của từ Nam tiến thời hiện đại. Và do đó từ 1975 nó bao hàm một hình tượng thực dân nội biên được coi là có biện minh của lịch sử.


Có những điều cũng tưởng là đương nhiên, bắt đầu từ sự điều chỉnh hướng địa lí lịch sử này. Ví dụ chuyện của ngôn ngữ, văn chương. Ông Võ Đình trong một số Văn học có nói đến chuyện ông (cũng như nhiều người khác) nói tiếng Huế (hay địa phương khác) nhưng khi viết ra thì dùng tiếng Bắc. Người ta cho rằng đó là điều tự nhiên vì tưởng là đương nhiên. Của hiện tại. Nó không phải là chỉ dấu đương nhiên của quá khứ, và càng không thể đoán được của tương lai. Bởi vì không có gì sai hơn. Tất nhiên người ta viện dẫn rằng dùng tiếng Bắc là hợp lí vì đó là của nơi dân Việt phát xuất, là của đất “ngàn năm văn vật”... Nhưng hãy nhìn lại thêm Trung Quốc. Gốc phát tích của dân Hán là vùng trung lưu Hoàng Hà, nơi có kinh đô Lạc Dương, Tràng An của các triều đại Chu, Hán, Đường rực rỡ. Trong lúc đó, Bắc Kinh, như đã nói, là một vị trí bên lề, xây dựng bởi các triều ngoại tộc không muốn đồng hoá với Hán Trung Quốc. Thế mà, phương ngữ Bắc Kinh (và vùng phụ cận) trở thành “quan thoại”, “quốc ngữ”, gạt ra bên lề hàng chục phương ngữ khác không có lí do gì kém cỏi hơn. Chỉ vì Bắc Kinh là kinh đô của cả nước. “Lời nói của vua quan” trong thời vua chúa trở thành “tiếng phổ thông”, “chữ của nước” trong thời dân làm chủ.


Trở lại Việt Nam. Chúng tôi đã nhắc ý của ông Taylor nói về tiếng nói Hà Nội giống tiếng Huế vì có vẻ có một hướng Bắc tiến của ngôn ngữ, nhưng chúng tôi (đã nói, không đủ khả năng biết chi tiết hơn) cho rằng gần cận hơn, có lẽ phải tìm nguyên nhân từ sự cai trị của tập họp Mường Lê Thanh Hoá cùng tiếp theo là vị trí kinh đô của Huế trong gần một thế kỉ dưới triều Nguyễn. Tâm lí hướng thượng là thường tình: Học trò trong Quảng ra thi, Thấy cô gái Huế chân đi không đành. Trong văn học cổ điển thì hát bội chuyển tải tính cách văn xuôi dài và nhiều hơn các loại văn sách của trường ốc, nghĩa là gần ngôn ngữ nói nhất, xét theo giới hạn phát biểu văn từ của thời xưa. Thế mà ông tổng đốc Đào Tấn viết tuồng hát bội không thấy dùng các từ “b’dẩy na? (vậy sao?)”, “ông/bà nậu (nội)”, “nẫu b’dìa xứ nẫu bỏ mình bơ b’dơ...” quen thuộc của quê hương ông, lại thấy toàn loại ngôn từ kiểu “không răng mô!” để trấn an người sợ (chó cắn), run rẩy: “làm răng bây chừ?” Ông đã dùng lối nói của dân thượng lưu kinh đô đem vào văn chương cao cấp của thời đại.

Chữ quốc ngữ la tinh hoá của Việt được sử dụng trước nhất ở Nam Kì thuộc Pháp, ở thủ phủ Sài Gòn. Từ một công cụ cai trị dùng cho cấp thấp, nó trở thành công cụ chuyển tải văn học. Sài Gòn thấy bắt đầu xuất hiện một sinh hoạt trí thức cao cấp dùng lối chữ mới. Nên nhớ, bước đầu bao giờ cũng khó, thế mà chỉ trong hai, ba mươi năm đã có báo chí đi theo biến động thời sự, có văn chương cổ điển để nối tiếp quá khứ, có từ điển văn pháp đóng khung quy tắc nói viết, có truyện ngắn mang dáng hiện đại ngay chính của Mẫu quốc (Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản có hơi văn của Guy de Maupassant đương đại – ít chênh lệch về thời gian hơn so với Phạm Duy Tốn và Alphonse Daudet gần nửa thế kỉ sau)... Nói tóm lại, Sài Gòn của trước cuối thế kỉ XIX, với vị trí thủ phủ thuộc địa Pháp, có dáng bắt đầu hình thành một nền văn học thuộc địa Việt. Thế nhưng cuối cùng thủ phủ đã chuyển ra phía bắc, đến một nơi tập trung quyền lực mới, điểm ngưỡng vọng mới. Trình độ trí thức Nam Kì hướng về bản xứ hạ thấp, chỉ còn tiếng nói hỗn độn của bình dân lam lũ, vui chơi, lôi kéo tầng lớp phục vụ ở bên trên tụt xuống. Không có sự phát triển tiến lên về thể loại, nội dung suy tưởng đã đành mà cũng không có cả sự chính xác chính tả, văn pháp của thời khởi đầu Trương Vĩnh Kí, Huình Tịnh Của nữa. Cho nên không lấy làm lạ với thời kì sau, khi hiệp định Genève chia cắt đất nước, một nhà trí thức di cư (luật sư Trần Thanh Hiệp?) đã chê rằng Nam Kì không có một nền văn học. Lời chê hơi quá khích và có phần vội vã, bởi vì khi đã trở thành thủ đô, Sài Gòn tập trung người tứ xứ và với sứ mệnh đầu não một khu vực chính trị, nó cũng có dáng bắt đầu của một trung tâm văn hoá.


Chữ quốc ngữ đi theo với người Pháp ra phía bắc và bắt đầu tiến trình có đà sẵn từ phía nam, lần này bền dai hơn theo với sự tổ chức cơ cấu cai trị toàn Đông Pháp trên thủ phủ Hà Nội không có dời đổi. Theo với những biến động chính trị, quốc ngữ được dùng nhiều hơn, gây đà cho sự phát triển rộng rãi hơn vì đây là xứ bảo hộ, khác với Nam Kì là thuộc địa phải hướng về Mẫu quốc. Văn học Việt Nam hiện đại được thành hình từ nơi này. Học vấn không phải chỉ có tiếng Pháp nên có thêm một nền học chính Pháp Việt. Sách học được soạn thảo bởi các nhân viên vùng này và thế là những “... giáo khoa thư” sẽ là khuôn mẫu học vấn cho trò nhỏ Việt toàn quốc. Chữ quốc ngữ là loại biểu âm mang hình thức gói tròn chỉ một lối đọc, lại do người của chỉ một vùng ghi chép chính thức, nên làm cơ sở cho sự thống nhất ngôn ngữ, khác với loại hình chữ nôm đã mơ hồ về hình dạng biểu âm mà còn mang dấu vết địa phương trên cách biểu diễn của người nhiều vùng khác nhau. (Xem tranh luận ví dụ về việc diễn âm chữ “nghỉ”/”nghĩ” trong Truyện Kiều.)** Do đó, các “giáo khoa thư” lúc đầu còn có lời chú đối chiếu với từ địa phương: nhanh/lanh, mau, xem/coi, vào/vô... nhưng các sách về sau thì chỉ có một từ, cũ cũng như mới, của vùng thủ đô: dần dần, phà (bắc, đò), kênh (băng tần truyền hình), di dời... Hình thức “quốc ngữ” cũng làm cố định các dạng phát âm chênh lệch như ở các chữ: vậy/dậy/b’dậy, nhỉ/nhẻ/nhẩy, nhé/nhá, hả/hở... (Trong thực tế, các phát âm không bao giờ đúng như tất cả các chữ đã được ghi ra.)

Học tiếng Bắc, đọc sách quốc ngữ xuất bản từ miền Bắc là thứ tự nhiên bắt đầu từ yếu tố chính trị, trở thành nuôi dưỡng một ý thức thống nhất quốc gia tưởng là đương nhiên của muôn đời. Thế mà lại cũng thấy ẩn nấp đâu đó một tinh thần kinh sách từ chương phù phiếm lấp ló qua cách thu nhận kiến thức, thành hình một nếp suy nghĩ, lại sẽ trở thành “truyền thống”. Ông nhà giáo công chức Pháp viết sách theo lệnh chu cấp lương hàng tháng, bày tỏ kiến thức có từ sinh hoạt địa phương mình, vậy mà điều ông xuống tay lại trở thành một thứ chân lí nhỏ. Chưa thấy cảnh đứa bé đồng trang lứa nước mắt nước mũi chạy sau con trâu theo-cái lồng lên khắp đồng ruộng, cậu học trò tiểu học thành phố cứ bắt chước ông thầy ngân nga (rồi lại hát theo Phạm Duy): “Ai bảo chăn trâu là khổ, không, chăn trâu sướng lắm chứ!...” Học trò lớn phía Nam đinh ninh “Mưa đằng nam vừa làm vừa chơi” (Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu) thì chắc chắn bị cảm lạnh mà có khi vẫn không chịu tìm hiểu thực tế ở xứ mình “mưa đằng nam” có gây dột tràn mái nhà hay không. Anh sinh viên quân y Huỳnh Hữu Cửu mê Dế mèn phiêu lưu kí, “yêu mến văn chương Việt Nam, cách ăn nói của người Hà Nội, quyết một ngày nào đó phải đặt chân đến Hà Nội mới thoả lòng”, và anh đã được toại nguyện khi đầu hè 1954 về nơi này thi oran, nhưng rồi lại ngạc nhiên thấy nó như một tỉnh nhỏ cỡ Biên Hoà, Mĩ Tho, chỉ đông đúc với hàng loạt xe đạp đeo bảng số như bảng số xe hơi! (Sông Mĩ, sông Việt toàn tập, 1995, tr. 122, 123.) Một thứ mê tín ngôn từ trở thành mê tín địa phương, nồng nàn đến mức độ che mất lí trí, chỉ tan vỡ khi “đi thực tế” như các cán bộ Miền Nam theo tàu Ba Lan tập kết, như anh sinh viên tranh đấu nhảy núi, như nhóm đòi Hoà bình 1965 bị tống xuất ra Bắc lại phải chạy qua Tây. Như anh thanh niên dự bị đảng viên được tưởng thưởng về thủ đô để kết nạp nhưng lại theo ngón tay chỉ của tượng bê tông Trần Hưng Đạo ở Sài Gòn mà theo thuyền ra khơi. Như Tổng trưởng Nguyễn Văn Hảo chờ phục vụ đất nước giải phóng làm luỵ cả đàn em. Như một phái đoàn trí thức “tiến bộ” Miền Nam với LM. Nguyễn Ngọc Lan và kịch sĩ Kim Cương, sau 1975 cuốn hút theo tiếng hát vang vang “niềm tin và hi vọng” của thủ đô, ra Hà Nội tìm “áo lụa Hà Đông” nghe tán tụng từ thi sĩ Nguyên Sa...


Cái tự nhiên xuôi một chiều Nam tiến được vun trồng biện minh bằng lịch sử, tiếp tay cho nguyên tắc thống nhất nêu cao đã làm đà cho những lấn át, có khi chẳng dính dáng gì đến lí tưởng, hay có thể nói là “núp dưới nhãn hiệu lí tưởng”.

Tính cách bao chiếm (dựa trên lí tưởng lịch sử xa, gần và toan tính quân sự thấy thực hiện được của các lãnh tụ) khiến VNDCCH coi mình là chính thống, gần như Trịnh núp dưới bóng Lê xưa kia coi phần đất phía nam là li khai, nay lại tệ hơn là li khai, là của thành phần bán nước tay sai. Tình tự dân tộc được khai triển trong chiến tranh, và chính sự dồn dập của cuộc chiến đã che lấp được những mâu thuẫn nội bộ giữa thành phần Giải phóng địa phương và quân chính quy Miền Bắc thấy qua các cung từ tù binh. Nhưng sự bao chiếm trên phải tỏ lộ khi chiến thắng, chứng tỏ nơi việc các cán bộ cấp cao của Mặt trận bỏ chạy, tự tử, ẩn nhẫn hờn dỗi (“Mặc kệ bọn Bắc Kì muốn làm mưa làm gió gì thì làm”, Dương Quỳnh Hoa), cúi đầu cầu an, hay chờ nắm quyền bính trả thù vặt ở địa phương... Tình thế lịch sử mỗi lúc mỗi khác nên không thể có cảnh dân Phú Xuân lùng diệt lính Trịnh khi Nguyễn Huệ cầm quân chiếm kinh đô Nguyễn. Năm 1975, 76 có cả sự “thống nhất về khí hậu” như lời một cô bé viết thư cho cha ở trại cải tạo, “gió bắc tràn xuống phía nam, lạnh quá chịu không nổi”. Tính cách xâm lăng ẩn khuất trong thời chiến đã hiển hiện trong thời bình một cách ngang ngược mà tinh tế hơn.


Chiến đấu thì bằng súng đạn tối tân (lại không phải tự chế tạo) nhưng tâm tình, suy nghĩ lại của thời chiếm đoạt xưa kia. “Không có gì để bàn giao!” Người đại diện (bị phủ nhận vì tội “phản bội” nhưng thú nhận là tình cờ của ngày ấy) nay nằm ở Paris hẳn đã hiểu rằng việc bàn giao không phải là chuyện mất thể diện của kẻ chiến thắng mà là một hành động văn minh dẫn đến những hành động văn minh khác, khác xa kết quả của những cuộc chiến cướp đoạt trong quá khứ. Cứ cho rằng kẻ bàn giao là “tay sai bán nước” nhưng dân chúng và lãnh thổ được trao lại là những con người, khu vực cụ thể phải bảo vệ, những “đồng bào”, “phần đất nước yêu dấu” theo thứ tình tự được rao giảng đến mỏi cả miệng. Bàn giao là một giao ước có chứng tá, có thể không được thi hành, nhưng dù sao cũng là một bằng cớ cụ thể chuyển đổi mà mọi hệ thống chính trị đều đòi hỏi, giản dị như thấy ở miếng giấy bán ruộng vườn, đồ đạc. Sự kí kết cũng không phải là điều hạ mình, vì người ta đã từng cùng kí kết trên Hiệp định Paris! Cái khác xảy ra là vì lúc này một bên đã thành người chiến thắng, sẵn sàng cho một tư thế cướp đoạt “múa gậy vườn hoang”. Ở chùa Lôi Âm, Tam Tạng không đưa ra tặng vật, được lãnh kinh “vô tự” mang về, con khỉ Tề Thiên kiện ông Phật “thủ kho to hơn thủ trưởng” đòi hối lộ, thì được Phật Tổ giảng cho bài học về chứng cớ cụ thể của điều gọi là “lòng thành”, khiến Tam Tạng phải mang bình bát ăn xin đi đường ra đổi kinh có chữ mới truyền được cho đời sau. Lòng thành vốn là điều tốt đẹp, của tinh thần, thì được đổi bằng điều quý giá tương đương vô hình, vô ảnh là sách không chữ, trong lúc thực tế trần gian chỉ có thể dùng cái cụ thể (bình bát) trao đổi với cái cụ thể (kinh có chữ) mà thôi. Người cộng sản Việt tuy chê mê tín không đọc Tây du để học ngụ ngôn, nhưng trong men say chiến thắng hẳn cứ cho rằng mình có thể thực hiện được nhiệm vụ đối với dân chúng trong vùng lãnh thổ chiếm đoạt mà không cần một giấy tờ cụ thể nào. Kết quả nho nhỏ là cứ vào nhà người bỏ chạy vặn quạt vặn đèn, sử dụng máy điện (nếu có) hết tốc lực, nuôi heo trên tầng thượng không thấy tuôn phân nghẹt ống nước, của không vốn (người chết không thể đòi vốn) chiếm được cứ tưởng chừng có thể xài đến vô tận... Và tâm thức ấy có sự xuyên suốt đến cả tầng lớp lãnh đạo: Sự trừng phạt lớp người nằm trên tầng lớp chính quyền đã chuyển sang sự trừng phạt toàn dân chúng vùng bại trận với việc tịch thu quỹ hưu bổng, tiết kiệm, vét tài sản đưa về phía Bắc, kể cả những thứ không biết cách sử dụng... với chính sách lí lịch nương tay khi cần, đe doạ tuỳ ý, cả đến bán người cho sóng biển.


Không thoả mãn với chỉ nửa triệu cán bộ vào Nam cầm quyền – chưa kể gia đình? (P. Papin, Việt Nam, hành trình một dân tộc, Nguyễn Khánh Long dịch, Toronto 2001) với hệ thống quân sự trấn áp nguỵ quân, với tập thể công an trấn áp dân chúng, người ta lập kế hoạch từng năm một đưa người vào Nam với những con số cụ thể cho từng tỉnh, từng năm, cứ như vào chỗ hoang vu không người. Một nhà giáo cũ nhìn nhà cửa san sát của những người mới đến (Bình Thuận) đã phải thốt ra câu: “Họ coi Miền Nam như một colonie de peuplement!” Người Stieng ở Bù Đăng thấy người Tày Nùng Quảng Ninh, người dân Việt Bình Dương, Sông Bé thấy những người được chính quyền đưa đón theo kế hoạch nhà nước – hay cả những người chẳng theo kế hoạch nào, đến lấn lướt, kèn cựa khiến dân “bản xứ” bán đất đai, bỏ vườn tược ra đi. Đi đâu? Đã có biện pháp mở cửa bán người cho sóng biển lấy vàng bạc, đất đai, lấy đôla gửi về như tiền chuộc tội cho những người còn lại, nên không cần nhắc đến các thùng hàng cứu vãn chế độ hay hàng tỉ tiền mạnh bù đắp ngân sách. (Tất nhiên, “cây” vàng “đâm toạt tờ giấy” kinh sách mới, sự “mở cửa” này lại làm vỡ từ bên trong cả hệ thống kềm kẹp của công an, cán bộ, lây lan đến những ngành sinh hoạt khác.) Vẫn thấy chưa đủ trống chỗ như ham muốn, có dịp phóng sinh thêm, người ta kì kèo cho nửa triệu người HO đi. Còn nói gì đến vùng Tây Nguyên với đám dân du canh du cư, chỉ có sự chứng thực quyền sở hữu là cách sinh sống ngàn đời để lại, chỉ có Giàng biết, một thứ quyền không hợp với thời đại bài trừ mê tín dị đoan, đòi hỏi giấy tờ kí tá, con dấu in lên. Mà cũng không cần điều ấy vì cường ngạnh hơn, có nguyên tắc “ruộng đất của nhân dân” (mà nhà nước quản lí) thay thế nguyên tắc cưỡng đoạt vương thổ xưa.*** Thế là đất rừng tàn phá, tài nguyên cạn kiệt với một chính sách “thực dân nội biên” cũng có mục đích cấp thời là giải toả những bất mãn quanh thủ đô để giữ yên ngôi vị.

Tất nhiên không thể ung dung ngồi ở Hà Nội mà có thể thi hành chính sách “điều phối dân số” kia. Mấy mươi năm nằm trong truyền thống tuân phục mới có tiềm ẩn sự phục tùng quân quyền ngàn đời còn rơi rớt, các cán bộ từ từ bước lên trong nấc thang xã hội, như người làm quan cũ, không thể nào không vâng lệnh, sự vâng lệnh che giấu nỗi xấu hổ, được cho khoác tấm áo hiện đại bằng lí thuyết “dân chủ tập trung”. Và khôn ngoan cho mấy thì cũng phải có sơ hở, có khi vì không đủ khả năng ghìm giữ với các yếu tố phản kháng mới. Con giun Tây Nguyên, có phần được sự xúi giục của tôn giáo mới, nổi dậy biểu tình (2001) với điện thoại cầm tay, trao đổi bằng ngôn ngữ thiểu số khó giải mã một chừng mực như toán Navajo trong chiến trận Thái Bình Dương với Nhật. Sức phát triển nối tiếp từ Gia Định / Sài Gòn Lục Tỉnh / Sài Gòn VNCH đủ làm cho những người lãnh đạo mới ở địa phương khôn ngoan bám giữ được quyền lợi mà vẫn có thể coi thường, khinh miệt Trung ương với khả năng thích ứng của mình vừa trong thế giới kinh doanh mới, vừa trong kiểu cách hối lộ truyền thống, tư cũng như công, qua những “món quà trên mức tình cảm” hay với sự đóng góp (của riêng TP. Hồ Chí Minh) vào công quỹ nước, có khi lên đến 60%, kiểu nộp tô truyền thống hay tiền bảo vệ làm ăn cho cai đầu dài thời hiện đại. Tên mới của thành phố chỉ được sử dụng trên bản đồ, trong công văn nhà nước, còn thì ngoài đường phố nhan nhản các bảng hiệu Saigon Departo, Saigon Tourism, Saigon Taxi, Saigon Pharmacy... như một phản ứng địa phương không lời. Sức phát triển đó làm cho gần hai phần ba thanh niên vẫn có lúc ghi trên giấy tờ tên TP. Hồ Chí Minh, nơi mình sinh sống, mà không quan tâm đến người Khai Sáng Triều Đại! Sức phát triển đó làm nảy ra sinh hoạt xã hội đen mà những người cầm quyền, trong tâm thức cũ, kiến thức cũ không đuổi bắt kịp đành chỉ đổ thừa cho thời mở cửa để nhớ tiếc thời thần thánh che giấu xưa kia.


Đặt tên “chế độ thực dân nội biên” theo chúng tôi là sự lựa chọn đúng mức, tuy với những biến động còn gần gũi và tiếp diễn trước mắt có thể làm cho người ta ngần ngại liên tưởng đến tính chất phe phía, cay cú. Nhưng tại sao một hiện tượng như nhau lại chỉ có thể đổ dồn gán tội riêng cho người ngoại quốc? Có thể viện dẫn bài kinh mới: “Hiện tượng thì giống mà bản chất thì khác.” Luận cứ giả triết thuyết này đặt căn bản trên điều gọïi là hễ đứng về phía cho là của lẽ phải, cho là nắm được chân lí thì có quyền hành động không kể tiểu tiết, điều đó trong thực tế đã dẫn đến những hành động ngang ngược, dối trá không ở tầm mức chấp nhận bình thường của nhân loại mọi nơi chốn, thời gian, và không phải đã không tạo thành nền nếp để ảnh hưởng đến sinh hoạt rối loạn thời bình, hiện nay. Lí Quang Diệu quen dùng ngôn từ văn minh nên nói đến việc “Việt Nam xuất khẩu nghèo đói” nhưng chủ trương cho vượt biên của Bộ Chính Trị thật rõ ràng không có người cầm đầu quốc gia nào dám nghĩ tới – và làm được. Vượt biên (trái phép) mà rủ rê, lấy danh sách, đặt cọc tiền trước (8/12 “cây”, giá ở Sài Gòn), thầy giáo buông cục phấn là chạy ra dưới dạ cầu chữ Y đóng tàu, người người ồn ào xuống bến như đi chợ... Lấp lửng gọi tên là “bán chính thức”, người cầm quyền cho thoát vài lần để lấy tiền rồi cũng một lần bắt người lấy “công tác”, lập toà án trút tội cho cấp dưới ăn chặn Nhà nước (người đầu nậu tử tù có cả ngàn cây vàng ở Cam Ranh), nhân tiện trừ khử cán bộ cát cứ (xử tử Đại tá Mười Vân của tỉnh Đồng Nai)... hành động phối hợp nhuần nhuyễn tính cách quyền bính công khai và thảo khấu đó thật vượt trên cả mọi toan tính của các chính khách trên thế giới. Không thể chấp nhận loại “triết thuyết” Phân biệt bản chất và hiện tượng đó ở đây được.

Tuy nhiên, quả thật chế độ thực dân nội biên ở Việt Nam cũng có điều khác với của thực dân đế quốc và tay sai ngày trước. Không chỉ bằng lòng với việc đền Hùng đã có mặt tận phía nam đất nước, người ta lấy “bài học lịch sử” để giáo dục quần chúng “không quên nguồn gốc”. Các thầy giáo sau 4-1975 vào Sài Gòn rao giảng về vua Hùng, về thống nhất đất nước, về chủ nghĩa xã hội thấy vẫn còn chưa đủ nên trong Hội nghị sử học toàn quốc lần thứ nhất của các trường đại học tháng 6-1979, người ta đề nghị “viện trợ” thêm nhà giáo sử học cho Miền Nam. Các lễ kỉ niệm Thăng Long 990, 1000 năm, Huế 700 năm, Quy Nhơn 500 năm, Sài Gòn 300 năm... tổ chức rầm rộ, cấu kết một ý thức liên tục lịch sử làm thoả mãn tự ái địa phương, chịu phận đàn em mà vẫn thấy mình đúng là “có phần” trong quá khứ của dân tộc.


Điều đó cũng dẫn đến kết quả phải chịu ép một bề của những người ở phía Nam. Người tài xế ở đảo Côn Sơn, than phiền về những người mới đến cậy thế cậy thần, đã nói với giọng đầy mặc cảm: “Nói ra thì sợ mất lập trường...” Người ta đã bảo anh: “Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, lời Bác Kính yêu đấy! Bác đã có đền thờ trên đỉnh Vua ở Tản Viên – như vua Hùng ở Nghĩa Lĩnh. Bác đã có đền thờ tận trong các xẻo rạch Miền Nam. Cụ thân sinh – dù là tri huyện bãi chức vì đánh chết dân (một người trong gia tộc kẻ này), phải lưu lạc chết ở xứ Cao Lãnh nổi danh với gà đá trong Đồng Tháp Mười hoang vu, thế mà nay đã có Lăng để tràn ngập uy quyền từ cả cõi vô hình. Thế là anh tài xế sợ mất lòng tôn kính, mất lập trường, phải chịu nhịn người bức hiếp mình để khỏi mang tội gây chia rẽ, làm mất đoàn kết (Đoàn kết, Đoàn kết, Đại đoàn kết...) Với người ngoại quốc, anh phản kháng là đáng khen. Với người lãnh đạo trong nước, phản kháng là làm điều tội lỗi. Chính trị, chính sách trở thành đạo lí phải theo. Từ người trên. Anh tài xế là công nhân, thuộc thành phần ưu tú của nhân loại, là người Việt Nam (phải) yêu nước “dưới lá cờ vẻ vang của Đảng”, anh không thể “nói ra...” Không có một người ngoại quốc nào đến cai trị nước khác một cách tinh vi, hoàn hảo hơn người cộng sản Việt Nam cai trị người Việt theo cách quản chế đến tận tâm hồn này. Không ai chỉ cho anh tài xế biết rằng chẳng có người nào làm chủ được thời điểm, nơi chốn mình sinh ra, sinh ở đâu thì anh vẫn là con người đầy đủ, có toàn quyền đối với thân xác, tâm hồn mình, vì vậy không cần phải e ngại lịch sử, không cần phải theo sự hướng dẫn của bài học lịch sử có chủ đích. Chỉ có mỗi một điều anh phải sợ một cách đáng thông cảm, là quyền uy. Thế mà tuy sợ nhưng một phần bản chất người khác vẫn làm anh tài xế phải ấm ức.(1) Những người không chịu để ấm ức thì suốt ngày chờ tiền ngoại quốc gởi về mua bến vượt biên, bạo gan đến rủ cả Bác bỏ Lăng vào bến Nhà Rồng “canh me (mer)” chờ nhảy đại lên tàu khi không đủ “cây” chung vốn. Lúc thất bại, họ vật vờ lười nhác ngóng đợi rơi rớt từ nước ngoài, thụ động bên trong như những người thanh niên nhiệt thành phục vụ chế độ mới tưởng để chuộc tội cho cha anh mà lúc cần thì người ta vẫn nhắc nhở để ghìm giữ. Sự tàn tạ không phải chỉ của một thế hệ nhưng đời sống thì vẫn phải liên tục, mang di chứng của thời thủ phủ Đông Pháp chuyển qua...

Tạ Chí Đại Trường

Labor Day 2002 – New Year 2003
Văn học Tết Quý mùi và Tân niên 2003




(1) Nói về tính chất Thực dân nội biên trên đất Việt sau 1975, người viết chỉ ghi lại những điều đã trở thành lịch sử, nhưng nếu muốn tìm các chứng cớ thời sự thì người ta có thể đọc bài “Lục bình” của Luật sư Dương Mỹ Trâm, nhận định điều mà tác giả cho rằng “ít có người ‘dám’ nói ra hay ‘dám’ đụng tới, hay nếu có nói thì chỉ nói xa gần một cách mơ hồ, gián tiếp tự nhận cái an phận thủ thường, để rồi tự an ủi là số phận nạn nhân” (Tạp chí Đi Tới số 69&70, tháng 5&6-2003, Montréal, Canada.) Nội dung trong trích dẫn trên (và ở những nơi khác trong toàn bài) cho ta thấy đúng là vấn đề mà chúng tôi gọi là “thực dân nội biên” chứ không phải là “vấn đề Nam-Bắc” (bao hàm tính cách cá nhân, vô tổ chức) như tác giả gọi, có lẽ vì còn muốn giữ một ý tứ dè dặt, tránh né. Tuy nhiên tác giả đã dẫn chứng sự thiên lệch trên báo chí tuyên truyền văn hoá về hai miền Nam Bắc (Tạp chí của Hàng không Quốc gia Việt Nam, Heritage Fashion), trên TV: “Mở đài truyền hình vào dịp Tết sẽ thấy Hà Nội truyền thống, bánh chưn, cành đào, lễ hội liên miên. và sẽ thấy ở Sài Gòn toàn chuyện cướp giựt giết người, đụng xe, gian lận... Thậm chí nạn mãi dâm, cần sa, ma tuý chỉ thấy ở Miền Nam...” Và tác giả, không nhịn được, đã “bày tỏ lập trường”: “Cái bất công là người ta phủ ơn nơi đã cho họ nẩy mầm và phát triển; cái ác độc là họ còn tiếp tục làm nhục tuy vẫn bóc lột vùng đất đã giúp họ thành công”. “Lập trường” đó là để phản kháng giùm những người tại chỗ bị lấn lướt mà phải nín nhịn: “Thì... phải đành vậy thôi...cô!” Cũng như người tài xế bị nhồi nhét ý thức chính trị “dân tộc”, ở Côn Đảo.



* Khoảng 1884-1887, quân Xiêm chiếm Mường Thanh (Điện Biên Phủ)”nhằm khẳng định quyền bá chủ của người Xiêm ở khu vực này” nhưng hiệp ước Xiêm-Pháp 1893 đã chuyển về phía thuộc quyền Đông Dương. Tác giả tham luận (Ch. Keys, “Người Thái ở Việt Nam trong ý nghĩ của người Thái Lan” trong Các nhà Việt Nam học... tr. 560-580) phải đi đến kết luận: “Những nỗ lực của nhà nước Xiêm... sáp nhập chế độ muang của Sipsong Cu Thai (Thái vùng Lai Châu) vào một hình thể địa lí tiến hoá sau này trở thành Thái Lan là vô cùng ngắn và có vẻ không để lại dấu vết gì trong kí ức xã hội của người Thái ở Việt Nam.”


** Có vẻ nhận ra sự khác biệt của các tiếng nói địa phương biểu lộ trong dấu vết chữ nôm nên phát sinh một khuynh hướng nghiên cứu Việt Nam ở Bắc Mĩ hiện nay (K.W. Taylor. “Việt Nam học ở Bắc Mĩ” trong Các nhà Việt Nam học... đã dẫn, tr. 52, 53.


*** Tính đến năm 2000 thì Tây Nguyên có số lượng tộc người nhiều nhất nước vì cả đến các tộc vốn rất ít ở phía Bắc cũng tràn vào, khiến dân bản thổ chỉ còn là 26% so với toàn thể dân chúng. “Ở tỉnh Kontum trong năm 1999-2000, Nhà nước đầu tư theo dự án kinh tế mới với tổng số vốn là 13 tỉ đồng và đã đón được gần 300 hộ từ tỉnh Vĩnh Phúc và các tỉnh khác vào huyện Kon Plong và một số địa bàn trong tỉnh, tỉnh Dak Lak đã tiếp nhận thêm 400 hộ di dân đến từ các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Hải Dương, Thái Bình vào các huyện Ea Sup, M’drak, tỉnh Gia Lai cũng tiếp nhận thêm 300 hộ đến các huyện Chư Prong, Krong Pa, Mang Yang, Kong Cho... Không gian sinh tồn của (các tộc người bản địa) bị thu hẹp, đất đai canh tác của đồng bào bị thiếu hoặc bị mất (?)...” (Nguyễn Tuấn Triết, Tây Nguyên cuối thế kỉ XX – Vấn đề dân cư và nguồn nhân lực, Nxb, Khoa học xã hội 2003, tr. 84, 107.) Vậy mà người học giả nhà nước này vẫn cho rằng “mật độ dân số (Tây Nguyên) vẫn còn thấp so với nhiều khu vực trên cả nước, và chỉ bằng ¼ của Miền Đông Nam Bộ – một khu vực liền kề với Tây Nguyên và là một trong hai vùng nhầp cư của nước ta trong nhiều năm qua”. Vẫn cho rằng Tây Nguyên với tài nguyên phong phú, tiềm năng lớn và đa dạng mà chưa được khai thác đúng mức, thì làm sao nhà nước ngưng tay để khỏi xảy ra tiếp vụ biểu tình tháng 4-2004? Ph. Papin (sđd, tr. 40) với sự dửng dưng của nhà nghiên cứu ngoại quốc đã ghi nhận: “Trên cao nguyên Đắc Lắc, các vùng người Việt định cư đã phân cách các tiểu nhóm Êđe gây nên sự đứt đoạn đột ngột trong cấu trúc sắc tộc trong cả nhóm... Một hiện tượng chưa từng có: một tiểu nhóm bị cắt đứt khỏi bối cảnh văn hoá của mình đã tách khỏi nhóm Êđê mà nhập vào nhón Jarai láng giềng... Phân tán và chia nhỏ đã tạo ra ở đây những sắc tộc đã thiểu số lại càng thiểu số hơn.”




--

0 Comments:

Post a Comment

<< Home